Chế Lan Viên, từ tiếng kêu bi ai đến lời sám hối muộn màng.
Đỗ Trường
Có thể nói, từ đầu thế kỷ
thứ hai mươi cho đến nay, Chế Lan Viên được đánh giá là một nhà thơ
lớn tài năng. Và khi nghiên cứu, ta có thể thấy, thơ văn cũng như con
người ông có nhiều mâu thuẫn, phức tạp, đa diện nhất trong dòng văn
học sử Việt Nam từ trước đến nay. Có lẽ, xuất phát từ mâu thuẫn
nội tâm ấy, ông luôn làm người đọc phải kinh ngạc, và không chỉ đưa
đến nhiều điều thú vị, mà còn cả những điều nhạt nhẽo, khó chịu
khác. Ở cái tuổi mười bảy, Chế Lan Viên rất đĩnh đạc, bất ngờ đóng
thẳng vào chân móng của trào lưu thơ mới, bằng thi tập Điêu Tàn rắn
chắc và già dặn. Ngay từ tập thơ đầu này, ta có thể thấy, thi pháp
cũng như tư tưởng Chế Lan Viên bộc lộ một cách rõ ràng, mạch lạc và
tính cách khác lạ. Và cùng một thời điểm xuất phát ấy, nếu Hàn
Mặc Tử, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương…đang chờn vờn mây trời, sông nước,
với nỗi đau tình ái, thì tiếng thơ Chế Lan Viên bi ai, quằn quại với
thân phận, nỗi đau của con người, của dân tộc. Sau 1945, tuy tài năng,
vốn sống được nâng lên và dày dặn hơn, nhưng thi pháp, tư tưởng, ngòi
bút của ông bẻ ngoặt theo một chiều hướng đã định. Để rồi, khi trở
về với đất, ông phải mang theo một nỗi u hoài, với những lời thán ca
muộn màng, tiếc nuối.
Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc
Hoan sinh năm 1920 tại Quảng Trị, theo học và chỉ đỗ bậc Thành chung
(cấp 2) ở Qui Nhơn. Và suốt dọc tuổi thơ Chế Lan Viên gắn liền với
mảnh đất nơi đây. Ở đó, cũng cho ông nguồn cảm hứng cùng với Quách
Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Bích Khê lập ra nhóm Trường Thơ Loạn. Năm
1945, ông tham gia kháng chiến, và sau hiệp định Geneve 1954 tập kết ra
Bắc. Từ đó, Chế Lan Viên làm văn nghệ, và tuyên huấn tư tưởng. Ông
mất năm 1989 tại Sài Gòn.
Sự nghiệp văn thơ của Chế Lan
Viên đồ sộ, lừng lững trên văn đàn, xuyên suốt cả một thế kỷ. Ông
viết nhiều thể loại, kể cả phê bình. Bỏ qua định kiến tư tưởng,
chính trị, dường như tập thơ nào của Chế Lan Viên cũng hay và mới,
nếu xét về hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên, cũng như các thi nhân
khác, đi sâu vào chi tiết, ta có thể thấy, trong đó không phải, không
có những bài thơ, câu thơ dở. Âu đó cũng là lẽ thường tình trong
nghệ thuật sáng tạo. Nhưng để chọn ra những tập thơ tiểu biểu cho ba
giai đoạn sáng tác của ông, với tôi phải là Điêu Tàn ấn hành năm
1937, Ánh Sáng Và Phù Sa xuất bản năm 1960, và Di cảo thơ viết
vào những năm cuối đời.
* Một thiên tài sớm nở.
Không hiểu sao, tôi sợ phải nghe
cái danh từ (hay vương miện) thần đồng dùng để gán, để chụp lên đầu
cho một ai đó đến vậy. Nhưng nếu buộc phải dùng nó để đánh giá, thì
với tôi: Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ hai mươi đến nay, chỉ
xảy ra có một lần, và thần đồng duy nhất phải là cậu thiếu niên
Chế Lan Viên cùng thi tập Điêu Tàn. Có thể nói, đây là tập thơ chín
sớm nhất, vừa ra đời đã trở thành cổ thi. Đọc nó, ta nghe như có
tiếng tiền nhân vọng về từ hàng ngàn năm trước vậy.
Cũng như Đinh Hùng, Bích Khê…Chế
Lan Viên chịu ảnh hưởng sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng, siêu hình cũng như thi
pháp của các nhà thơ lãng mạn Âu- Mỹ như Budelaire, Verlaine, Edgar Allan
Poe. Tuy tiếp thu và chịu sự ảnh hưởng như vậy, nhưng Chế Lan Viên với
Điêu Tàn vẫn giữ được nét cổ Đường thi.
Đến với Điêu Tàn, Chế Lan Viên
từ bỏ thế giới hiện hữu, tìm về thế giới hồn ma vô thực. Vì vậy,
quan niệm cũng như biểu hiện của cái đẹp trong mĩ học hoàn toàn thay
đổi. Nếu trời, mây trăng gió (thiên nhiên, con người) là hình ảnh, cái
đẹp trong thơ Xuân Diệu, thì sọ trắng ma thiêng, đau thương, đổ nát
hoang tàn mới là đối tượng thẩm mĩ trong Điêu Tàn của Chế Lan Viên.
Đọc Điêu Tàn tưởng như nghe được
tiếng khóc, tiếng kêu bi ai tiếc nuối, nhìn được sự tang tóc với nỗi
đau vong quốc. Nhưng lặng lại giây lát, dường như ta thấy vẫn còn chưa
đủ. Mà sau nó còn là những hồn ma, bóng quế nhập đồng vào cậu bé
Chế Lan Viên, hay Chế Lan Viên hóa vào những bóng ma, những đầu lâu,
và hộp sọ cùng những nắm xương khô dắt nhau tìm lại chính mình và
dân tộc mình: “Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”. (Trên đường
về). Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây, để không chỉ thấy được một
dân tộc với quá khứ anh dũng và huy hoàng, cùng những đền đài uy
nghi, tráng lệ đã bị bức tử, mà còn cảm được áng thơ tuyệt đẹp, u
mang hoài cổ của Chế Lan Viên:
“Đây, điện các huy hoàng trong ánh
nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành…“ (Trên đường về).
Và trên con đường ấy, nhà thơ
đã nhìn thấy sự hồi sinh, bất diệt của một dân tộc: “Nước non Chàm
chẳng bao giờ tiêu diệt/ Tháng ngày qua vẫn sống với trăng mờ“ (Bóng tối).
Vâng! Cái tư tưởng độc lập dân tộc Hời (Chăm) hay Việt ấy của Chế Lan
Viên tuy mới chỉ phảng phất. Nhưng có lẽ, đã cảm được điều đó, nên
chính quyền thực dân vội đục bỏ hai câu thơ trong bài chăng? Trên
Đường Về là một bài thơ như vậy, và nó cũng là một trong những
bài thơ hay nhất trong thi tập Điêu Tàn:
“Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời
——-
Đây, những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than…“
Tuy tự vẽ ra con đường ấy, để
đi vào thế giới của cô hồn, lấy đau thương làm thước đo thẩm mĩ,
nhưng càng đi nó càng làm cho người thi sĩ cô đơn, chán chường hơn: “Đường
về thu trước xa xăm lắm/ Mà kẻ đi về chỉ một tôi”. Điều đó, phải chăng
không chỉ là nỗi buồn thương cho dân tộc, cho giống nòi, mà còn là
tấm lòng nhân đạo cao cả của thi nhân? Thật vậy, Xuân là một bài thơ
điển hình trong thi tập này của Chế Lan Viên đã làm được điều đó.
Nếu những bài thơ xuân của Nguyễn Bính, Anh Thơ… cùng viết vào thời
điểm đó, là sự thanh bình, tươi mới, thì Xuân của Chế Lan Viên là sự
bế tắc của cuộc sống cũng như tâm hồn. Từ những bế tắc, cô đơn ấy
luôn làm cho nhà thơ phải chống chọi, níu kéo vào thời gian, vũ trụ.
Và chính cái mùa thu lá rụng đó mới là nơi ẩn nấp, che chắn cho tâm
hồn đang nhỏ máu của thi nhân. Nhưng cái vòng quay tuần hoàn của thời
gian kia, vẫn đang cày xới đến cái tận cùng của nỗi đau và tuyệt
vọng ấy. Và rồi, dường như nhà thơ đã bất lực? Với tôi, Xuân của
Chế Lan Viên là một là bài thơ viết về mùa xuân lạ nhất, sầu thảm
nhất, và hay nhất của nền văn học Việt Nam:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu.
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
— Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang!
Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân?
Có một người nghèo không biết tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn!…“
Bi thương là thế, và cứ tưởng
rằng, bị chìm sâu dưới những nấm mồ, thời gian hóa thạch,
nhưng khát vọng của con người luôn trỗi dậy, hướng về một thế giới khác
lạ, mênh mông và xa thăm thẳm: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/ Một
vì sao trơ trọi giữa trời xa“. Nhưng, dù có ở chân trời góc bể
nào, nỗi ám ảnh cả thể xác lẫn tâm hồn đó vẫn không hề buông tha,
Chế Lan Viên phải co người trốn chạy, và như con tò vò làm tổ ẩn
núp trong chính trái tim mình: “Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!“ (Những sợi tơ lòng).
Đọc Điêu Tàn, ta có thể thấy
những bài thơ thất ngôn, bát ngôn của Chế Lan Viên, dường như không hẳn
theo một mạch chảy. Mỗi khổ trong bài thơ như là một bài thơ
thất ngôn, bát ngôn tứ tuyệt. Những khổ thơ này, hoàn toàn có thể
hoán đổi vị trí cho nhau, nhưng nội dung chuyển tải cả bài thường
không hề thay đổi. Nếu có, sự thay đổi đó không nhiều. Với thủ pháp
nghệ thuật này, sau này chúng ta bắt gặp nhiều trong thi tập Đường
Vào Tình Sử của Đinh Hùng.
Và có lẽ, không chỉ trong thơ,
mà một số cuốn tiểu thuyết, văn xuôi gần đây, có thể ít, nhiều cũng
chịu ảnh hưởng từ Điêu Tàn (?) đưa thế giới hồn ma, siêu thực vào
tác phẩm của mình như: Dạ Tiệc Qủy của Võ Thị Hảo, Que Diêm Thứ
Tám của Văn Biển, hay Cò Hồn Xã Nghĩa của Phạm Thành. Và nó đã
rất hành công về nội dung, ý đồ chuyển tải của nhà văn đến người
đọc.
Có thể nói, ngay từ thuở ban
đầu đến với thi ca, cậu bé Chế Lan viên đã vạch ra một con đường
riêng cho mình. Và cho đến nay, Điêu Tàn vẫn là tập thơ độc nhất vô
vị của văn chương Việt về khuynh hướng sáng tác ấy. Với tôi, cùng
với Lửa Thiêng của Huy Cận, Điêu Tàn là tập thơ tiền chiến hay, lạ
và độc đáo nhất.
*Một cái loa phường.
Tháng 8-1945 là bước ngoặt, đưa
con người cũng như thơ văn Chế Lan Viên theo một chiều hướng khác. Ông
tham gia Việt Minh và làm báo chí, văn hóa văn nghệ. Từ đây, ông phải
giải quyết mâu thuẫn chính trong nội tâm của mình. Và trong mười lăm
năm ấy (1945-1960) Chế Lan Viên đã bốc được con ma Hời ra khỏi linh hồn
bằng thi tập Ánh Sáng Và Phù Sa.
Đọc Ánh Sáng Và Phù Sa ta
có thể thấy, ngay từ ngày đầu đến được với Đảng CS, Chế Lan Viên hả
hê, sung sướng và thốt lên, đảng là cha là mẹ, một lần nữa đã tái
tạo ra ông. Thật vậy, có lẽ khó tìm ra một nhà văn, nhà thơ nào yêu
đảng hơn Chế Lan Viên:
“…Tôi đứng dưới cờ, đưa tay tuyên
thệ
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau“ (Kết nạp đảng trên quê mẹ)
Và trước đảng, Chế Lan Viên như
một con chiên ngoan đạo. Ông dằn vặt, mặc cảm với quá khứ và luôn
tìm cách từ bỏ, rũ sạch nó. Chúng ta hãy đọc lại hai đoạn thơ so
sánh trong cùng bài Ngoảnh Lại Mười Lăm Năm, tặng và ngợi ca Tố Hữu,
cũng như bản tự dày vò kiểm thảo, để thấy rõ sự sám hối của Chế
Lan Viên trước đảng thành thật, sâu sắc biết nhường nào:
“Anh thấy trước ngày mai
Cờ hồng treo trước ngõ…
Giữa nhà lao bóng phủ
Tìm đường cho lịch sử
Qua hai hàng cùm xai
Tôi nhìn ra tha ma
Hay quay vào trang sách
Ôi! dân Chàm nước mắt…
Khi đã buồn hiện tại
Thì quay về tháp xưa“
Có lẽ, hơn một lần tôi đã
viết, dù bất kỳ chế độ xã hội nào, kể cả những nước tân tiến dân
chủ như Âu-Mỹ cũng luôn cần có những văn nghệ sỹ đối lập với chính
phủ đương thời, nhằm dự báo, và chỉ ra những yếu, khuyết điểm, thúc
đẩy xã hội tốt hơn nữa. Nhưng sống trong một chế độ xã hội quản lý
con người bằng chiếc dạ dày, bao tử, thì không chỉ Chế Lan Viên mà
dường như nhà thơ, nhà văn nào cũng vậy, không ít thì nhiều cũng
phải úp mặt xuống, xoay ngòi bút của mình. Một người được cho là
chí khí như Hữu Loan, trước khi về quê thồ đá, ông có đến ba bài
tụng ca đảng và lãnh tụ. Đoạn trích dưới đây trong bài Chờ Đội Về
được Hữu Loan viết và in vào tháng 2-1956 trên báo Văn sẽ chứng minh
điều ấy. Từ đó, người đọc hiểu thêm, dù cách tân hay với hình thức
nghệ nào đi chăng nữa, dạng những bài này của tác giả Màu Tím Hoa
Sim chỉ dừng lại ở mức vè không vần mà thôi:
“– Ai đã về quê tôi?
Nước sông Hồng
Quanh năm
Chảy mật
Ruộng hai mùa
Mông mênh biển vàng
Nhưng bần cố nông
Vẫn là những kẻ
Mất thiên đường
Lang thang
Trong hỏa ngục.
Vải ấm Đảng cho
Bần cố nông
Không được mặc
Gạo no Đảng cho
Bần cố nông
Không được ăn
Địa chủ
và tay chân
Đem bán chia nhau…. (Nguồn nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)
Có một điều đặc biệt, và phải
nó thẳng, từ ngày có Đảng CS, có hội nhà văn cho đến thời Hữu
Thỉnh, Quang Thiều hiện nay, không ai viết ca ngợi đảng và lãnh tụ
hay, tài tình bằng Chế Lan Viên. Ngày 7-5-1954 vừa kết thúc chiến
dịch Điện Biên, Chế Lan Viên đã viết ngay bài “Bữa Cơm Thường Trong
Bản Nhỏ“ rất kịp thời chào đón đảng và bác Hồ trở về thủ đô.
Qủa thật, bắt đúng nhịp, hòa vào dòng thác cách mạng như Chế Lan
Viên không mấy người làm được. Xét về mặt nghệ thuật, đây là bài thơ
song thất lục bát hay so với các tác giả khác có chung một đề tài.
Tầm tuổi tôi, ở miền Bắc, chắc chắn hồi học cấp 2, ai cũng phải
học thuộc lòng bài này:
“…Từ có Bác cuộc đời chợt sáng
Bát cơm no ngày tám tháng ba
Cơm thơm ăn với cá kho
Công đức Bác Hồ bản nhớ nghìn năm
Bác thương dân chăm ăn chăm mặc
Em đi chợ đồng bằng bán hạt sa nhân
Tháng giêng thêu áo may quần
Tháng hai trẩy hội mùa xuân hãy còn…“
Nếu“Bữa Cơm Thường Trong Bản
Nhỏ“ viết theo thể thơ cổ điển song thất lục bát, thì đến với“Người
Đi Tìm Hình Của Nước“ được Chế Lan Viên viết theo thi pháp, thể
loại mới. Một bài khóc hay, đầy hình tượng ngợi ca lãnh tụ Hồ Chí
Minh khi qua đời. Cùng thời điểm đó Tố Hữu cũng nấc lên với bài Bác
Ơi, được giới phê bình đánh giá cao, và sau đó đã đưa vào giáo trình
giảng dạy cho học sinh phổ thông. Nhưng với tôi, bài thơ này của Tố
Hữu thiếu hình ảnh, hình tượng, nặng về kể lể, như người khóc thuê
trong đám ma vậy. Thật vậy, cùng một tiếng khóc, nhưng nông, sâu cũng
khác nhau xa lắm. Chúng ta hãy đọc lại hai đoạn trích dưới đây, để
thấy tiếng khóc của Chế Lan Viên lặn vào trong, khác với tiếng khóc
của Tố Hữu như thế nào nhé:
“Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…“ (Tố Hữu)
“Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã
khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin“ (Chế Lan Viên)
Đến với đảng, Chế Lan Viên không
chỉ học và viết được những lời ngợi ca, tụng ca, mà ông còn biết
chửi. Tiếng chửi của ông đanh đá, và chua ngoa, không khác mấy bà già
quê vén váy quay cuồng, khi bị mất cắp gà. Hai đoạn trích dưới đây
trong bài Hoa hồng trong bệnh viện và Tiếng hát của thằng điên trong
Dinh Độc Lập, được in trong tập Ánh Sáng Và Phù Sa. Nhưng tôi nghĩ,
nó hoàn toàn không phải là thơ:
“Bọn giặc chó miền Nam, bay đã uổng!
Cắt thịt da ta, không cắt nổi nụ cười!
Cả chế độ miền Nam bay sụp xuống
Khi thành đồng đã đến lúc vươn vai
—
Bắt lấy con chó điên trong dinh Độc Lập!
Bắt lấy con thú điên trong dinh độc lập!
Bắt cả tớ thầy treo lên cành cây
Thằng Diệm chết. Thằng Mỹ thì cút ngay“
Có hai câu thơ kết trong bài Cho
Uống Thuốc:“Bên ni biên giới là nhà/ Bên kia biên giới cũng là quê hương”
được Chế Lan Viên viết khi đang chữa bệnh ở viện lao của Trung Quốc
vào tháng 6- 1954. Bài thơ này, ông viết tặng cô y tá, trước khi về
nước, tỏ lòng tri ân, vì đã được chăm sóc ân cần như người ruột
thịt. Dù ở Trung Quốc mà cho ông cảm giác như đang ở Việt Nam với gia
đình, quê hương làng xóm vậy. Và cái cảm giác ấy, xuyên suốt cả bài
được tổng kết bằng hai câu thơ trên. Tuy nhiên, muốn hay không trong giai
đoạn đó, cũng buộc Chế Lan Viên phải lồng chính trị, bằng hình ảnh
bác Hồ, bác Mao của ông vào bài, nhưng đó chỉ là bên lề. Do vậy, có
một số người đọc đã hiểu lầm, hoặc chỉ đọc hai câu kết này, rồi
kết luận, chụp mũ Chế Lan Viên bán nước. Kinh hơn nữa, nhiều người
còn cho rằng, hai câu thơ trên của Tố Hữu, và cứ dựng ba đời nhà ông
ấy ra chửi. Viết ra điều này, không có có nghĩa là tôi binh che, hoặc
bới móc. Bởi, cuộc sống hay trong văn thơ cũng vậy, viết, hoặc đánh
giá rất cần có một sự sòng phẳng.
Có thể nói, Chế Lan Viên là
người ham đọc và nghiên cứu. Đến với Ánh Sáng Và Phù Sa
ông mở rộng đối tượng, không gian sáng tạo, cũng như thay đổi
hoàn toàn thi pháp. Tuy được nhuộn đỏ tâm hồn, nhưng tình yêu quê hương
đất nước, tình yêu đôi lứa vẫn chiếm vị trí quan trọng trong thơ ông.
Thật vậy, tuy mang tính thời
sự, nhưng Tiếng Hát Con Tàu là bài thơ trữ tình hay và điển
hình nhất của Chế Lan Viên vào những năm đầu hòa bình. Và cùng với Lên
Miền Tây của Bùi Minh Quốc, bài thơ này đã góp phần không nhỏ
kêu gọi, minh họa cho phong trào khai hoang kinh tế, tàn phá rừng đầu
nguồn Tây Bắc của đảng, dẫn đến những cơn lũ kinh hoàng, gây bao tang
tóc cho đất nước con người.
Ngay đầu thập niên sáu mươi,
dường như ít nhiều Chế Lan Viên đã chịu ảnh hưởng thi ca Nga, đặc
biệt phương pháp luận làm mới, lạ hình tượng trong sáng tạo của
Mikhail MikhailovichBakhtin. Từ những
lẽ đó, ta bắt gặp hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo không chỉ
xuyên suốtTiếng Hát Con Tàu, mà còn trên cả thi tập Ánh Sáng
Và Phù Sa:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.”
Nếu ở Điêu Tàn, ma quỷ
sọ người lơ lửng cùng Chế Lan Viên dắt nhau vào cõi hư vô, thì đến Ánh
Sáng Và Phù Sa, bằng biện pháp tu từ so sánh ấy, đã kéo ông trở
về với cõi thực, cõi của con người. Và sự kết nối giữa tư tưởng
và nghệ thuật đó đã mở ra trong thơ Chế Lan Viên:
“Con gặp lại nhân dân như nai về
suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Cảm xúc là điều cần cho một
thi sĩ, nhưng mở ra được những suy tưởng, để rồi cô lại thành những
triết lý đưa vào trang thơ, quả thật không phải ai cũng làm được. Đọc
Ánh Sáng Và Phù Sa, ta có thể thấy tính triết lý đan vào trong mỗi
câu thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm
hồn”. Và từ đó, nhà thơ đã nhìn ra tính triết lý, qui luật tình
yêu, nằm trong mối quan hệ mật thiết giữa vụ trụ và con người. Khoảng
Cách là một bài thơ như vậy, và nó như được chiết ra từ trí tuệ
bậc thày của Chế Lan Viên. Đôi khi đọc nó, tôi cứ ngỡ là định luật
trong vật lý, toán học vậy:
“Khi
em xoay lưng lại với anh
Hai đứa cách nhau một vòng quay trái
đất
Khi hai đứa mắt đã soi trong mắt
Thì không gian còn khoàng cách nào đâu”
Dường như Chế Lan Viên viết thơ
tình không nhiều? Có thể nói, cùng với Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư,
Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Em Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, và
Khi Chưa Có Mùa Thu của Trần Mạnh Hảo… Tình Ca Ban Mai của Chế Lan
Viên là một bài thơ tình hay nhất ở thể ngũ ngôn của thi ca đất
Việt. Ngoài cấu trúc chặt chẽ, với cặp đôi và khoảng cách cân xứng,
ta còn thấy Tình Ca Ban Mai có từ ngữ sang trọng, sáng và đẹp. Và
vẫn phép hình tượng so sánh làm cho bài thơ e ấp, ẩn chứa mà lung
linh đến kỳ lạ. Với tôi, đây là bài thơ toàn bích nhất của Chế Lan
Viên được viết trong thời gian này:
“Em đi, như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc
Em ở, trời trưa ở
Nắng sáng màu xanh tre
Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi
Có thể nói, giai đoạn từ sau
1945 đến khoảng những năm gần cuối của cuộc đời, tâm hồn của thi sĩ
Chế Lan viên được ngăn đôi. Bên thì đanh đá, chua ngoa, bên thì nhẹ
nhàng, sâu thẳm. Âu đó cũng là cái mâu thuẫn chung của các văn sĩ
chỉ được phép đi trên một con đường đã vạch sẵn vậy.
*Lời sám hối muộn màng.
Tôi tin rằng, sau Nhân văn giai
phẩm, và nhất là sau 1975 một con người nhạy cảm như Chế Lan Viên,
chắc chắn đã nhận ra cái cùng đường tịt lối của đất nước, cũng như
thân phận bèo nhèo, bạc nhạc của người cầm bút. Và nếu đi chệch
đường rày, vượt ra khỏi cái vạch chỉ đường, thì khoảng cách đến
với con ma Hời rất gần. Không vượt qua được cái dạ dày và một chút
đặc quyền, danh vọng, nên Chế Lan Viên vẫn cần mẫn làm cái loa phường
cho đến những năm hưu trí cuối đời. Âu đó cũng là chuyện thường tình
của con người.
Theo cách nói của dân chè chén
vỉa hè, Di cảo thơ chủ yếu ra đời khi Chế Lan Viên đã hết đát, trở
về với nồi cám heo của mình. Và ông cũng là người mở đường cho
những Nguyễn Đình Thi với Gió Bay, Nguyễn Khải với Đi Tìm Cái Tôi Đã
Mất sau này. Tuy có chút muộn màng, nhưng đó cũng là điều đáng kính,
đáng trọng, không phải văn nghệ sĩ nào cũng đủ can đảm làm được.
Di cảo gồm bốn phần chủ yếu
ghi về những điều vụn vặt, nhưng mang triết lý sống như răn mình, răn
đời vậy. Đọc nó, dường như cho ta cảm giác Chế Lan Viên đang đi gần
đến Phật pháp, cởi mở tâm hồn hơn. Tuy nhiên, với tôi, có bốn bài
giá trị, làm rung động lòng người nhất: Chiếc bánh vẽ, Ai Tôi, Trừ
đi, và Tháp Bay-on bốn mặt. Có thể nói, đây là bốn bài thơ không chỉ
là lời sám hối, mà còn là những lời cáo trạng của Chế Lan Viên ở
giai đoạn cuối đời. Có nhà phê bình cho rằng, viết xong những tác
phẩm này, ông đã trút được gánh nặng mang trong mình từ mấy chục năm
qua. Nhưng tôi không nghĩ như vậy. Làm gì nhẹ nhàng, và dễ dãi đến
thế, chí ít là đối với Chế Lan Viên, khi đang quay trở về làm người
thi sĩ đích thực. Tuy nhiên, tôi nghĩ, trong giai đoạn cuối đời này,
chế Lan Viên chưa bốc hẳn được con ma Hời, ma xó thứ hai này ra khỏi
linh hồn, nhưng ít nhất ông tự thú nhận ra bản chất, và cũng có thể
sẽ đi đến đoạn tuyệt với nó.
Những câu hỏi và tự trả lời
này, không phải đến khi Chế Lan Viên viết Ai Tôi? mà có lẽ nó luẩn
quẩn trong ông từ bấy lâu rồi. Và lời độc thoại ấy là một trong
những thủ thuật, Chế Lan Viên làm cho người đọc thoạt tưởng như một
lời thú tội của riêng mình. Nhưng đằng sau nó là sự vạch mặt, phơi
bày tội ác của những kẻ quyền hành cao nhất đã gây ra chiến tranh
và trận chiến Mậu Thân này. Bởi, ai cũng có thể hiểu rằng, cá nhân
người thi sĩ không quyền lực trong và sau cuộc chiến, dám đứng lên
nhận trách nhiệm, thì nhân cách nào cho những kẻ có quyền lực cao
nhất?
Vâng! Đó là cái tát rất hiếm
hoi vào mặt những kẻ có trách nhiệm vào thời điểm đó của Chế Lan
Viên, cũng như bộc lộ lòng nhân đạo của con người đối với con người:
“Mậu Thân, 2000 người xuống đồng
bằng
Chỉ một đêm còn sống sót có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000
người đó ?
Tôi !
Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi lúc xung phong
Một trong 30 người khi ở mặt trận
về sau mười năm
Ngồi bán quần trên đường nuôi đàn
con nhỏ
Quán treo huân chương đầy mọi chỗ
Chả Huân chương nào nuôi được người
lính cũ !
Ai chịu trách nhiệm vậy ?
Lại chính tôi!…”
Giai đoạn này Chế Lan viên chủ
yếu viết theo thể tự do, ông để những câu thơ chảy theo những cảm xúc
tự nhiên của mình. Trừ Đi là một bài thơ hay và tôi thích nhất trong
thời gian này của Chế Lan Viên. Ông thẳng thừng xổ toẹt tất tần tật
những thứ thơ văn bồi bút của mình, bởi:“Cái cần viết vào thơ, tôi đã
giết đi rồi!/ Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười”. Nhìn vào chiều
dài lịch sử văn hóa Việt, ta có thể thấy: Với người Việt, làm ra
lỗi thì dễ, nhưng nhận lỗi thì khó lắm thay. Ba mươi năm trước Chế
Lan Viên sám hối, nhận lỗi và xổ toẹt như vậy, quả thật là một sự
dũng cảm. Và tuy ông viết cho hậu nhân mà như thể răn lòng mình vậy:
“Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu ? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi
rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng
cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ.
Tôi giết cái cánh sắp bay…
trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
cho được yên ổn trên bờ…”
Dù Chế Lan Viên có tự ví mình
la Tháp Bay-on bốn mặt, hoặc muôn mặt đi chăng nữa, ta cũng chỉ
nhận ra một thi sĩ đích thực Chế Lan Viên và một Chế Lan Viên gác
cửa văn hóa văn nghệ của đảng, khác nữa mà thôi. Và chính Di cảo thơ
của ông đã cho tôi thêm cảm hứng viết bài này. Nói dại, nếu Chế Lan
Viên không có những Di cảo thơ cuối đời này, thì ông mãi mãi là kẻ
gác cửa, thì chẳng đáng tiếc cho một thiên tài lắm sao.
Có thể nói, cuộc đời và sự
nghiệp văn thơ của Chế Lan Viên được chia thành ba giai đoạn: Phong trào
thơ mới, cùng với thi tập Điêu Tàn, đến cầm canh gõ nhịp, tụng ca,
minh họa từ sau 1945, và những Bản cảo sám hối đã và chưa được xuất
bản. Ba giai đoạn ấy, cũng là ba tiếng khóc bi – bỉ – hận trong thơ
cũng như con người Chế Lan Viên.
Tôi viết bài này, theo đề nghị
của ông bạn thời trẻ trâu. Hắn được học hành đến nơi đến chốn, và
đang giảng dạy văn học hiện đại ở một trường đại học. Trên bốn chục
năm không gặp, hôm rồi vô tình hắn đọc được bài viết về nhà thơ Đinh
Hùng, và Vũ Hoàng Chương của tôi, rồi nhận ra nhau qua Fb. Hắn bảo,
vẫn đang nghiên cứu về thơ tiền chiến, nếu được tôi viết một bài về
Chế Lan Viên, xem đánh giá, suy nghĩ của người Việt ở nước ngoài như
thế nào. Giời đất, một kẻ cả ngày úp mặt vào chảo như tôi, mà
phải để ông Phó quan tâm thế này. Được thôi, nhưng tôi đọc thật, viết
thật đấy, có khi xát ớt vào đít nhau thì bỏ bà. Tôi trả lời vậy.
Hắn cười bảo, rất cần như thế…
Và trên đây là những suy nghĩ
chủ quan của tôi về nhà thơ Chế Lan Viên, có thể không đúng. Nhưng dù
sai hay đúng, tôi hy vọng, nó đóng góp được một phần nào đó, để làm
sáng tỏ chân dung một nhà thơ tài năng và cũng đầy mâu thuẫn này.
Leipzig ngày 27-3-2017
Đỗ Trường
------------------------------------------------------------------------------------------
Cảm ơn cụ Nguyên Hân đã sưu tầm gửi cho bài viết tham khảo này
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành…“ (Trên đường về).
Quay về xem non nước giống dân Hời
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than…“
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
— Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang!
Ý thu góp lại cản tình xuân?
Có một người nghèo không biết tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn!…“
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau“ (Kết nạp đảng trên quê mẹ)
Cờ hồng treo trước ngõ…
Giữa nhà lao bóng phủ
Tìm đường cho lịch sử
Qua hai hàng cùm xai
Hay quay vào trang sách
Ôi! dân Chàm nước mắt…
Khi đã buồn hiện tại
Thì quay về tháp xưa“
Nước sông Hồng
Quanh năm
Chảy mật
Ruộng hai mùa
Mông mênh biển vàng
Nhưng bần cố nông
Vẫn là những kẻ
Mất thiên đường
Lang thang
Trong hỏa ngục.
Vải ấm Đảng cho
Bần cố nông
Không được mặc
Gạo no Đảng cho
Bần cố nông
Không được ăn
Địa chủ
và tay chân
Đem bán chia nhau…. (Nguồn nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)
Bát cơm no ngày tám tháng ba
Cơm thơm ăn với cá kho
Công đức Bác Hồ bản nhớ nghìn năm
Bác thương dân chăm ăn chăm mặc
Em đi chợ đồng bằng bán hạt sa nhân
Tháng giêng thêu áo may quần
Tháng hai trẩy hội mùa xuân hãy còn…“
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…“ (Tố Hữu)
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin“ (Chế Lan Viên)
Cắt thịt da ta, không cắt nổi nụ cười!
Cả chế độ miền Nam bay sụp xuống
Khi thành đồng đã đến lúc vươn vai
Bắt lấy con chó điên trong dinh Độc Lập!
Bắt lấy con thú điên trong dinh độc lập!
Bắt cả tớ thầy treo lên cành cây
Thằng Diệm chết. Thằng Mỹ thì cút ngay“
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.”
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Khi hai đứa mắt đã soi trong mắt
Thì không gian còn khoàng cách nào đâu”
Gọi chim vườn bay hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc
Nắng sáng màu xanh tre
Rải hạt vàng chi chít
------------------------------------------------------------------------------------------
Cảm ơn cụ Nguyên Hân đã sưu tầm gửi cho bài viết tham khảo này