Bài 1: Biên giới, hồi ức 35 năm
Đào Tuấn
Theo Một thế giới
Tháng 2 năm nay,
những cây đào Tổng Chúp, Hưng Đạo, Cao Bằng bỗng dưng đỏ loét trong cái
nắng trái mùa. Trên đồn biên phòng Pha Long, Lào Cai, thật lạ, chỉ duy
nhất một gốc đào đơm hoa. Còn ở pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn, những cây
đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau lách tùm lum của một
pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.
Một số phận
Trong
ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An, Cao Bằng, bà Nguyễn Thị
Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước ban thờ chồng, người 35 năm trước bất
đắc dĩ trở thành “tù binh chiến tranh”.
Câu
chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người phụ nữ nhỏ nhắn run
lên bần bật trước những hồi ức từ 35 năm trước. Chiến tranh đã lấy đi
của bà một đứa con. Và sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành khi
hàng đêm, hình ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như một
nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.
Sáng 17.2.1979, trời rất mù
và lạnh. Từ thị trấn Nước Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy
loạn khi tiếng pháo của lính Trung Quốc “như bom Mỹ rải thảm” khắp nơi.
Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người sản phụ khốn khổ đang mang thai đến
tháng thứ 9 chỉ còn biết vác bụng lặc lè để chạy.
“Cô chạy vào núi đá Mỏ
Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy sang Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo”. Đám
người chạy loạn bị lính Trung Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ tán
khắp nơi. “Chúng nó đông lắm cháu ơi! Đâu đâu cũng thấy lính Trung
Quốc”.
Trong
gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau đẻ trong cái đói, trong
cái rét, trong trời mưa lạnh, trong tối tăm mò mẫm. Không một hạt gạo
mang theo. Không một tấm chăn. Cả đám người đói khát, rét mướt và lo sợ
đến hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc nhúc, vây
hãm khắp nơi.
Những
con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ giọt gianh trong một tấm
nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất cả những gì mà ban đêm mấy người đàn
ông mò mẫm được từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung Quốc dựng
trại.
Đến
hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường cuối cùng, hòa với vốc
nước “để có sức mà đẻ”. Đứa con đầu lòng được sinh ra trong hang đá
nhưng 3 hôm sau thì qua đời.
“Cô sinh cháu và gói trong một
chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn
khổ đưa tay lên dụi mắt. Những giọt nước mắt mờ đục lăn dài trên khuôn
mặt “một ngàn nếp nhăn” tưởng chừng đã không còn có thể đau khổ được
nữa: “Lúc đó cô yếu quá, bỏ mấy đồng nhờ một ông già mang cháu đi. Chắc
vứt nó ở một đâu đó”.
Nhưng
bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2, người chồng nửa đêm đi kiếm
ước uống bị sa vào tay lính Trung Quốc. Ông bị giam giữ cho đến ngày 3.6
và từ sau đó, những đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao Bằng cho biết
ông bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.
Còn
bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái chết bi thảm của đứa con
đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất suốt 3 tháng. Tuyến sữa viêm tắc
khiến sau đó người phụ nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.
35
năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi hình ảnh đứa con đầu
lòng chết tím tái. “Đau xót lắm cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy bảo nó không
có nhà, lang thang ở một gốc cây nào đó”…
Không
chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã Cao Bằng lỗ chỗ tổ ong như
vừa trải qua “một trận B52 mặt đất”, không còn thứ gì cao quá 1m. Bách
hóa tổng hợp, một biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến không còn một
viên gạch lành.
Chị
Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao Bằng, năm đó 9 tuổi,
đến giờ vẫn không thể quên hình những xác người bị súng phun lửa đốt
cháy trên mặt đất. Khắp nơi.
Ông
Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa An nhớ lại: Đến ngày
20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn. Chiều 29.3. Không một chiếc
xe, không một người dân đi trên đường. Kho lương thực còn cháy nghi
ngút. Thị xã tan hoang khi lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật
đổ từng cây cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái gì
không lấy được thì phá hết.
Khi giặc đến nhà
Ngày
17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng quân sự chính quy lên tới
60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp chiều dài 1.200 km biên giới 6
tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính là một trong những trọng điểm đánh phá của
quân đoàn 41A với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.
Theo
nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí
China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của Trung Quốc phụ thuộc
phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.
Nhưng
hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực
đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn. Việc đi
chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn
công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở
mạn phía đông và nam.
Trong
một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương Danh Hy dịch ra tiếng Việt
ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình đã xác
nhận đó là cuộc chiến "giết gà đã phải dùng dao mổ trâu". Cụ thể “vũ
khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là
năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp
mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”.
Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với tàn phá như vậy?
Trang mạng quân sự milchina.com của
Trung Quốc 3 năm trước đã cho đăng thư của một cựu chiến binh
Trung Quốc từng tham gia chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải
thích lý do: "Mục đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá, hủy hoại
quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ, nên sau hai
ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành mệnh lệnh bán chính
thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây
ngọn cỏ”.
Cho
đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu
hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước
mắt. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tỉnh
ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ đội về một số xã để củng
cố đội ngũ cán bộ. Quân đội không có ở Cao Bằng. Lực lượng công an vũ
trang chỉ có ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả thị xã bấy
giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương (E567), nhưng cũng chủ yếu
là làm kinh tế. Đến đội ngũ dân quân tự vệ, “có thì có đấy, căng thì
căng như thế nhưng đã được phát súng đâu”. Thậm chí khi chiến tranh đã
nổ ra, có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng chưa có
quân”.
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng |
Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên chạy bộ đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.
“Chúng
tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận địa”, ông Hùng nói, “về sau,
khi lính Trung Quốc lên quá đông, đơn vị đã phải tháo súng (pháo) để
rút”.
Theo
Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới chiếm được Cao Bằng sau
khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ. Nhưng
sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng đã ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung
Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.
Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với xe tăng và pháo binh yểm trợ?
“Dân
Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng đánh, gặp đâu cũng đánh,
ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh. Chặn khắp nơi”- ông Vương Dương
Tường nói.
Ở
Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm cựu binh vẫn tự tập
hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt được cái gì thì đánh được bằng cái
đó. Ở Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch như
vậy.
Người
Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại. Cho đến cuối cuộc chiến
tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản
bội”- giọng người cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi
giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tháng
2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh sập năm xưa, một siêu thị
mới đã được dựng lên, cho dù người Cao Bằng vẫn gọi đó là Tổng Hợp Đổ.
Còn
người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu chuyện, bỗng bất ngờ hỏi
lại chúng tôi: “Sao các cháu không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy cô không
đi tìm một cây súng? Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: “Năm xưa, cô phải
chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng đến anh em đồng
chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già
yếu không đánh được, những đứa con của cô sẽ cầm súng".
Con
gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau đó nói sẽ đưa chúng tôi
vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn nhiều người biết đến những gì
xảy ra tại Tổng Chúp 35 năm trước, dù theo lời cô bé: "nơi đó giờ đã
hoang vắng lắm rồi anh ạ”.
Bài 2: "Đồng chí với nhau, ai nghĩ sẽ đánh nhau"
Đào Tuấn
“Ai cũng
chỉ nói chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi.
Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi. Chứ anh em
đồng chí, ai nghĩ là sẽ đánh nhau”- 35 năm sau, nguyên Bí thư tỉnh Cao
Bằng vẫn còn khắc khoải câu chuyện xảy ra năm 1979.
Trận tập kích bất ngờ
Ở Bát Xát, Lào Cai, khi pháo Trung
Quốc bắt đầu bắn sang từ phía bên kia biên giới, ông Nguyễn Văn Tuyến,
đại đội trưởng tự vệ Đoàn địa chất 305 (Đoàn 5) đang ở Bản Vược, ngay
trong tầm súng trường lính Trung Quốc.
“Chúng tôi vẫn pha trà uống. Chiến sự
vẫn liên miên từ trước đó, đêm nào cũng có tiếng súng, cho nên không ai
ngờ Trung Quốc đánh lớn”- ông nói.
Chỉ trước khi cuộc tấn công diễn ra 48 tiếng, cả dân lẫn lính Trung Quốc vẫn “sang bên này xem chiếu bóng bình thường".
Ông Tuyến từng là lính trong chiến
tranh với Mỹ, sau chiến tranh làm Phó Chủ tịch HĐND huyện Bát Xát, nhớ
lại: "Khi pháo Trung Quốc chuyển làn, ông mới giật mình hô anh em vì cảm
giác rằng bộ binh Trung Quốc sẽ sang. Mấy người hoảng hốt chạy ra đến
đến ngã ba Bản Vược thì khắp nơi đã tràn ngập màu áo lính đang vận động
từ phía trong ra điểm chốt của công an vũ trang. Chúng tôi tưởng bộ đội mình đã lên ngay thành thử súng cầm trong tay mà không bắn”.
Từ
trong hậu phương, lính Trung Quốc tiến đánh từ phía sau đồn công an vũ
trang và chốt tự vệ địa phương. Hỏa lực từ bên kia biên giới bắn sang
như mưa rào. Đơn vị ông Tuyến cơ động ra đến chốt Cây 2 thì bị một khẩu
đại liên chặn lại. Bấy giờ, anh em vẫn có người giơ súng, giơ cờ vẫy ra
hiệu vì vẫn tưởng bộ đội mình bắn nhầm.
Chỉ một lát sau đó, từ khu vực bản
Xèo, lính công binh Trung Quốc lao cầu phao và sau đó xe tăng Trung Quốc
tiến sang. “Họ đã chuẩn bị sẵn hết rồi. Cây cầu phao thả ra trôi theo
dòng nước là áp khít sang bờ bên này”, lời ông Tuyến.
Tự vệ bản Xèo hy sinh vô số kể. “Chúng tôi chỉ được trang bị trung liên và súng K63. Không có vũ khí chống tăng”- ông Tuyến nói.
Ông Nguyễn Mạnh Tường, Chủ tịch Hội
Cựu Chiến binh Bát Xát thời điểm tháng 2.1979 đang là lính sư đoàn 316,
một trong hai sư đoàn chủ lực duy nhất hiện diện ở biên giới phía Bắc.
Sáng đó, đang ở Than Uyên, đơn vị ông
có lệnh báo động. Ai cũng tưởng chỉ báo động hành quân dã ngoại, thành
thử “có người chỉ mang theo một quả đạn, có người trút lại tượng gạo, và
có người, chỉ mang độc một bộ quần áo trên người”.
Đơn vị ông Trường hành quân lên đến
Sapa thì những người lính mới biết chiến tranh đã xảy ra, và sau đó chạm
địch ngay tại đèo Ô Quy Hồ. 218 đồng đội của ông đã hy sinh trong trận
đánh đó.
Bát Xát là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” với những địa danh anh hùng và đau thương: A Mú Sung, Y tý.
Những người lính biên phòng A Mú Sung trong ngày 17 tháng 2 năm ấy, đã đánh đến viên đạn cuối cùng và hy sinh oanh liệt.
Cú đành trộm của " Người anh em" ! |
Một góc pháo đài Đồng Đăng |
Vì sao quân dân ta lại bị bất ngờ trước một cuộc tấn công toàn tuyến với quy mô 32 sư đoàn?
Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương
Tường, nhớ lại ở Cao Bằng hôm ấy, quân khu còn đưa các chỉ huy quân sự
tỉnh về họp. Không ai biết Trung Quốc đánh mình. Ngay cả khi tiếng súng
đã nổ vang từ hướng Hà Quảng, Thông Nông, trưởng ty Thủy lợi băn khoăn
nói tiếng súng nhiều lắm, không biết súng ta hay súng địch. Một lãnh đạo
Cao Bằng khi đó nói anh em cứ yên trí. Đó là súng mình.
Cao Bằng bấy giờ vừa tách tỉnh. Đến 1
giờ đêm, pháo Trung Quốc bắn phá dồn dập. Sáng ngày 17.2, lính Trung
Quốc đã đến chân đèo Minh Tâm. 2 tiếng sau, xe tăng chúng đã vào đến Cao
Bình, rồi vào đến Nà Tàu. Pháo binh Trung Quốc dồn dập nã xuống Nà Tản.
Ngày 18.2, lính Trung Quốc đã vào đến Hòa An, Cao Bình. Đến ngày 19, khắp nơi đã bị đốt phá giết chóc.
“Ai cũng nghĩ là chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là
giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế
thôi, ai nghĩ là sẽ đánh nhau” - ông Tường nói, và theo ông, 35 năm sau
vẫn chưa hiểu nguyên nhân câu chuyện đã xảy ra.
Cho đến năm 1992, khi các cơ quan của Bát Xát, Lào Cai từ Mường Vi trở lại Bản Xèo thì “vẫn chỉ có cỏ may và đất đỏ”.
Chúng tôi trở lại Đồng Đăng, Lạng Sơn vào đúng ngày lễ Đền Mẫu, lễ lớn nhất Lạng Sơn, nằm ngay dưới chân pháo đài Đồng Đăng.
Từ 35 năm nay, mỗi dịp tháng hai, đại tá Triệu Quang Điện, Trưởng
phòng cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn vẫn đến đây thắp hương
tưởng nhớ những người đồng đội của mình.
Ông Điện được phong Anh hùng lực lượng
vũ trang sau cuộc chiến tranh biên giới 1979, và sau 35 năm, ông vẫn
nhớ như in những cái tên Trần Văn Thái, Vi Văn Cao, những người đồng đội
trong tổ tam tam và bữa cháo cơm nếp cuối cùng đêm 16.12.
Bài 3: Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu đỏ
Đào Tuấn
Từ 35 năm nay,
vào dịp tháng 2 mỗi năm, Đại tá Triệu Quang Điện, trưởng Phòng Cảnh sát
truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn đều đến đền Mẫu để thắp hương cho đồng đội
của mình.
35
năm, thời gian chưa đủ để ông quên đi bữa cháo nếp cuối cùng. 35 năm,
ông vẫn nhớ như in hình ảnh của những người đồng đội trong tổ tam tam:
Những Trần Văn Thái. Những Vi Văn Cao.
Pháo đài Đồng Đăng và pháo hoa Trung Quốc
Năm đó,
binh nhì Triệu Quang Điện vừa cưới vợ được 4 tháng, cũng vừa qua khóa
huấn luyện 4 tháng ở Đông Khê, trở lại Lạng Sơn vào đúng buổi chiều ngày
16, khi phía Trung Quốc cho người đuổi trâu dò phá những bãi mìn biên
giới.
5h sáng,
khi pháo bắn cấp tập vào Đồng Đăng, ông cùng hai người đồng đội trong
tổ thậm chí còn chưa kịp ăn nồi cháo gạo nếp đã đặt trên bếp để vội vã
xách súng lên chốt ngay tại khu vực Đền Mẫu, pháo đài Đồng Đăng.
Tới 7h,
sương còn chưa tan thì lính Trung Quốc đã kéo sang khắp nơi. Ba người kê
súng bắn. Ông Điện, giữ súng trung liên bắn suốt 1 giờ đồng hồ.
“Hồi
huấn luyện, tôi bắn bia được 3 điểm 9 - ông Điện nhớ lại - nhưng hôm đó,
lính Trung Quốc lên quá đông, có lẽ là không cần bắn giỏi cũng có thể
trúng”. Riêng tại chốt Đền Mẫu, binh nhì Điện đã tiêu diệt tới 30 lính
Trung Quốc.
Lính Trung Quốc cứ theo tiếng kèn lớp lớp xông lên. Bị hắt ngược trở lại, rồi lại xông lên.
Trong
một thời khắc, khi ông vừa nhảy xuống hào thay đạn thì chỉ nghe “bầm”.
Ngoảnh lại, nơi 2 người đồng đội nằm chỉ còn lại một hố pháo đen xì.
Không còn chút vết tích.
Tới 10h, xe tăng Trung Quốc đã tràn ngập khắp nơi. Pháo binh Trung Quốc nã đạn vào pháo đài trong suốt nửa ngày 18.
Bấy giờ trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của ông Điện có tới 300 - 400 dân tới tránh pháo.
Đến tối
18, đơn vị ông nhận được phương án đưa dân trong hang ra. Và chỉ trong
một đêm, binh nhì Triệu Quang Điện trực tiếp đưa dân, ra ra vào vào 3
lần để cõng được ra 3 người đồng đội bị thương nặng.
Khẩu trung liên của ông giờ đang được trưng bày tại Viện Bảo tàng công an nhân dân.
Bia trấn ải ở Pha Long, Mường Khương, Lào Cai
|
Ít năm sau đó, khi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong một buổi lễ,
ông thậm chí không trả lời được vì sao chỉ trong 1 đêm, với quãng đường
17km, một người chỉ nặng chưa tới 49kg đã 3 lần bò vào cõng đồng đội bị
thương ra nơi an toàn.
Chúng tôi theo lối mòn trèo lên pháo đài Đồng Đăng, nơi bị đánh phá ác liệt nhất trong cuộc chiến biên giới.
Vào ngày
17.2.1979, 2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của 1 trung đoàn
xe tăng và 6 trung đoàn pháo binh đã tấn công ác liệt nơi này.
Trong
cuốn Lịch sử sư đoàn 3 Sao Vàng còn ghi rõ: Ngày cuối cùng tại Pháo Đài,
nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu
hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun
lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt
mạng cả thương binh và nhân dân tới đây trú ẩn.
Tháng 2 năm nay, pháo đài trở nên cô đơn, trơ trọi giữa sự náo nhiệt của lễ hội Đền Mẫu.
Ở Tổng Chúp có tấm bia ghi bại vụ thảm sát này.
Tấm bia giờ vẫn còn sau 35 năm, dù chiếc giếng cạn, nơi năm xưa chứa
đầy xác phụ nữ, trẻ em bị hành quyết bằng rìu bổ củi giờ đã lấp đầy cây
lá.
Quá khứ
không dễ quên. Nhất là khi đó là những gì đau thương nhất. Cho dù theo
thời gian, những nhân chứng chiến tranh giờ đã lần lượt ra đi. Ông Hoàng
A Tỉn, nhân chứng thảm sát trong sân Bách hóa tổng hợp Bát Xát đã mất 2
năm trước.
Đến Tổng
Chúp, lại nghe tin ông Nông Văn Ất, nguyên trưởng trại giống Đức Chính,
người đã mất vợ và 4 đứa con trong vụ thảm sát Tổng Chúp giờ cũng không
còn.
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long
Nhưng
cũng có những tấm bia trấn ải mới được dựng lên. Ngay bên tay phải đồn
biên phòng tiền tiêu Pha Long, Mường Khương, Lào Cai, có những dòng chữ
mới, được in trên bia đá:
Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non
Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.
Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng
Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an
Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ.
Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh dịch: Nguyên
Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong
sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm
(điều đó). (Có) rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt
Nam yên bình nhất là ở đây.
Thiếu tá Phan Đức Mạnh, chính trị viên
đồn Pha Long cho biết tấm bia trấn ải vừa được dựng hồi tháng 5, đúng
vào điểm đối diện đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Bên này từng
hàng, từng hàng tên tuổi của 37 liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến
tranh bảo vệ tổ quốc được khắc chìm trong đá xám.
Năm ấy, những chiến sĩ công an vũ trang
còn trẻ măng đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đã đâm gẫy đến chiếc lưỡi
lê cuối cùng để bảo vệ tổ quốc.
Ngày 17.2.1979, sau khi bắn viên đạn
cuối cùng, một người lính Pha Long đã gửi bức điện cuối cùng về hậu
phương. Và cũng chỉ vài chữ, đại ý: Chúng tôi hết đạn. Xin Vĩnh biệt.
Chợt nhớ đến những câu thơ Vương Trọng:
Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng
Gặp điệp khúc Tháng Hai năm Bảy chín
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long.
…
Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Vì sao đường Biên giới bản đồ
Của Tổ quốc được tô màu đỏ!..
Năm nay, chỉ duy nhất một, trong số gần bảy chục gốc đào ở Pha Long đơm hoa.
Không xa Pha Long là điểm cao Tả Ngải
Chồ, nơi một đồng nghiệp của chúng tôi, nhà báo, anh hùng liệt sĩ Bùi
Nguyên Khiết đã tay bút tay súng hy sinh vào ngày 17.2.1979.
Có lẽ, chính những người lính biên
phòng, chính những nhà báo liệt sĩ, chính nhân dân anh hùng, những người
đã ngã xuống từ cả ngàn năm nay, những người đã hy sinh anh dũng trong
cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc năm 1979 mới là những
tấm “bia trấn ải” thiêng liêng nhất mà mỗi người làm báo chúng tôi cần
phải nhắc lại để thế hệ con cháu còn có được cảm xúc thiêng liêng, tự
hào khi nhắc đến hai chữ “Tổ Quốc”.
Sắp tới đoàn các cụ đi thăm lại mấy tỉnh BG ( Cao Bằng, Lạng Sơn, Lao Cai ), nên đọc bài Phóng sự này , để, ngoài việc thưởng ngoạn phong cảnh hữu tình, tiếp xúc với đồng bào dân tộc thiểu số chất phác, còn hiểu thêm mảnh đất phên giậu này đã từng trải qua những ngày tháng đau thương và oanh liệt như thế nào 35 năm về trước ! Mà rồi đây LS sẽ phải ghi nhận một cách công bằng. Tôi tin cuộc du khảo của chúng ta sẽ mang ý nghĩa sâu sắc hơn bội phần.
Trả lờiXóaVới tôi, chuyến đi thăm các tỉnh biên giới phía Bắc của các cụ LS-QL, không phải là chuyến DU XUÂN, mà là một chuyến DÂNG HƯƠNG tưởng niệm các đồng bào liệt sĩ đã nắm xuống để bảo vệ MẢNH ĐẤT TỔ QUỐC tháng 2/1979.
Trả lờiXóaXin gửi gắm các cụ tấm lòng trác ẩn của tôi, sau những gì biết được về cuộc chiến 2/1979.
Cụ ơi, tôi mới chỉ đọc hết bài 1 mà đã thấy tức điên lên, tức GIẶC, tức "TA" và thương đồng bào, anh em mình vô kể. 5-6 thằng nó đánh một một thằng ta mà còn chẳng làm gì được nên mình cũng chẳng sợ thằng hàng xóm đầy tham vọng này.
Trả lờiXóa
Trả lờiXóahttp://youtu.be/FtfxmXnnOO4
Cảm ơn Calathau đã đăng loạt bài này. Các cụ hành hương về với lịch sử, mà hiện nay người ta muốn quên đi vì "đại cục", không hiểu đó là "Cục" gì mà lớn đến mức họ muốn ta quên đi?
Trả lờiXóaMình đã đọc bài PS của Đào Tuấn đăng 3 số từ mấy hôm trước. Hôm nay đọc lại. Đọc liền một lèo từ đầu đến cuối. Biết thêm nhiều điều và cũng suy ngẫm nhiều điều.
Trả lờiXóaMình đã viết bài thơ "ĐỪNG SỢ",sau khi đọc bài này và một số bài khác về cuộc chiến tranh chống bọn bành trướng tháng 2/1979.
Cảm ơn Quang Trung, bạn đã đằng bài viết rất hay, rất đầy đủ về sự kiện ngày 17-2-1979 ở Lạng Sơn. Hơn ba chục năm đã qua, chúng ta đã hiểu, và càng hiểu hơn về "ông bạn vàng". Tôi sẽ cố đi tham quan Lạng Sơn, Cao Bằng, để hiểu thêm đất nước mình, nhân dân mình.
Trả lờiXóaTôi đã đọc, cảm ơn cụ tải về đây!
Trả lờiXóaEm cũng có cảm xúc phẫn uất...Thật là quen thói lấy thịt đè người! Man rợ!
Trả lờiXóaEm cũng muốn đi cùng các anh chị len thăm lại nơi đã diễn ra câu chuyện lịch sử đó để kể lại cho con cháu! Cám ơn anh!
Tôi đọc liền 3 bài thấy có nhiều chi tiết đáng để suy nghĩ nhất là qua lời của những người có trách nhiêm ở Cao Bằng. Nhiều sự việc cho thấy lúc đó LĐ ta chưa đánh giá hết tình thế, có nơi đã bị bất ngờ, tất nhiên ta cũng đã có chuận bị và tinh thân chiên đấu rất cao. Tôi nhờ ngay 16/2 khi đến nói chuyện với Bộ y tế Bộ trương Thạch còn nói " ít có khả năng TQ dám đánh ta " không biết có phải là để tung đòn hỏa mù không ? Ngày đó tôi đang ở BK, khi đó tôi, anh D D Dy ( không phải Hy) đã ghi âm lại và dịch ngay tuyên bố của Chính phủ ta sang tiếng Trung để gửi các Sứ quán, sau đó về nước tôi có vai lần lên biên giới, ra đường biên tham gia công việc trao trả "tù binh" " TQ bi bị quân dân ta bắt khi xâm phạm biên giới ta.sau ngảy 18/3 . Nhửng kẻ xâm lược đã phải nhận lấy một bài hoc đích đáng. Sau này học giả TQ đã phải thốt lên " VN thật không dễ chơi, người VN có tinh thần dân tộc quật cương hàng đâu thế giới, không thể coi thường".
Trả lờiXóa