Hơn một nghìn ngày mất tích và sự trở về kỳ lạ
HÀNH TRÌNH QUA 3 NƯỚC VÀ ĐI BỘ VỀ HÀ
NỘI
Chẳng ai có thể ngờ người con gái có
gương mặt tươi trẻ, còn phảng phất nét hồn nhiên lại có một cuộc đời ly kỳ đến
thế.
Hơn một nghìn ngày mất tích, mất trí
nhớ, cô sinh viên Việt Nam xuất sắc đã bắt đầu những năm tháng đọa đày khi từ
Australia qua Mỹ, một ngày kia chui trong con-te-nơ trên một chiếc tàu chở hàng
vượt đại dương về Trung Quốc.
Để rồi từ Trung Quốc về Lạng Sơn và
từ Lạng Sơn đi bộ về Hà Nội trong tình trạng chẳng biết mình là ai? Nhưng đó
chỉ là “khúc dạo đầu” của số phận…
Lâm Thị
Thanh Huyền
Chính vì thế mà bố của Huyền – ông
Lâm Văn Bảng, một thương binh nặng – đã xiết bao kỳ vọng vào cô con gái mà mình
rất mực thương yêu.
Và thực tế, từ lớp một cho đến khi
vào đại học, Huyền luôn giành được những kết quả xuất sắc trong học tập. Tốt
nghiệp phổ thông trung học năm 1997, Huyền thi đỗ Đại học Giao thông Vận tải
với số điểm cao.
Nhưng học hết năm thứ nhất, cảm thấy
không hợp, Huyền quyết định thi vào khoa Toán – Tin Đại học Quốc gia và trúng
tuyển. Học đến năm thứ 2, Huyền vượt qua nhiều sinh viên khác để giành học bổng
du học ở Australia.
Đêm trước ngày sang xứ người, Huyền
trò chuyện tâm tình với bố đến quá nửa đêm. Người bố có biết bao nhiêu điều
muốn nói với cô con gái yêu sắp phải xa gia đình, dẫu là du học thì vẫn “thân
gái dặm trường” chắc sẽ nhiều vất vả, gian nan.
Món quà ông Bảng tặng con gái chẳng
nặng về vật chất. Ông mở tủ lấy ra một vật được gói ghém cẩn thận. Đó là cuốn
sách “Gương Nhân – Quả” do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
Ông Bảng mua năm 1995 và thuộc làu từng câu từng chữ.
Bây giờ ông trao sách cho con gái,
giọng rưng rưng: “Đây là cuốn sách bố thích, sang đó khi gặp khó khăn, con hãy
đọc nó. Nó sẽ giúp con vượt qua”. Ông Bảng ghi số điện thoại gia đình và tên
mình vào gáy sách. Nhưng chẳng hiểu sao lần này, ông lại ghi chữ “Bảng” thành
chữ “Bang”.
TAI HỌA KINH HOÀNG TRÊN ĐẤT KHÁCH
Huyền sang Australia, học ở thành
phố Sydney, viết thư đều đặn về nhà và cuốn “Gương Nhân – Quả” trở thành sách
gối đầu giường.
Cuộc sống ở xứ lạ bớt cô đơn hơn khi
Huyền trở nên thân thiết với hàng xóm – một phụ nữ người Pháp. Bà người Pháp
cảm mến cô sinh viên Việt Nam ngoan hiền, nết na nên nhận Huyền làm con nuôi.
Họ thường xuyên qua lại chăm sóc nhau như ruột thịt.
Bỗng một ngày Huyền bị sốt li bì,
nằm liệt giường. Mấy hôm không thấy cô con gái nuôi sang chơi, bà mẹ người Pháp
vội vàng qua nhà Huyền. Bà lập tức đưa Huyền đi bệnh viện. Bác sỹ kết luận:
Huyền bị viêm não biến chứng rất nặng.
Tất cả các bệnh viện ở Australia đều
bó tay với trường hợp này. Muốn cứu Huyền, phải đưa cô sang một bệnh viện tốt
nhất ở Mỹ. Chẳng chút đắn đo, bà mẹ Pháp đã làm thủ tục để Huyền sang Mỹ điều
trị.
Các bác sỹ ở Mỹ sau khi xem xét kỹ
bệnh tình của Huyền, đã khẳng định: Muốn cứu tính mạng, phải phẫu thuật, nhưng
phẫu thuật có thể sẽ mất trí nhớ. Giữa tính mạng và trí nhớ, chọn cái nào? Dĩ
nhiên, không khó để đưa ra câu trả lời.
Cuộc phẫu thuật đã cứu sống Huyền,
sức khỏe dần hồi phục nhưng trí nhớ của cô như một vùng sương khói mờ ảo. Họa
vô đơn chí, khi hai mẹ con đang trên đường ra sân bay trở về Australia thì lại
hứng chịu một tai nạn giao thông khủng khiếp.
Một chiếc xe đâm vào ôtô Huyền ngồi,
những chiếc thùng rất lớn lao xuống… Cô tỉnh lại trong bệnh viện và không thấy
bà mẹ nuôi người Pháp đâu nữa. Bà đã chết? Hay bà không tìm thấy Huyền? Bà mẹ
nuôi nhân hậu đã biến mất khỏi cuộc đời Huyền từ đấy.
Trong cái bệnh viện xa lạ đó, Huyền
tự hỏi mình là ai? Vì sao lại ở nơi này? Huyền không thể trả lời. Trí nhớ cô
chẳng khác nào một ổ dữ kiện trong máy tính đã bị xóa sạch.
Trống rỗng, xám xịt. Đến mức Huyền
không thể biết mình tên gì? Người nước nào, học ở đâu, bố mẹ là ai? Cô như
người từ hành tinh khác lạc vào trái đất, và ký ức là một vùng “chân không” hun
hút. Sự mất trí nhớ càng trở nên tai hại hơn khi tất cả giấy tờ của Huyền bị
mất hết sau vụ tai nạn.
Giọng Huyền nhỏ nhẹ: “Lúc ấy, ký ức
về từ những ngày học ở Australia và tất cả quá khứ của tôi bị xóa hết. Tôi chỉ
nhớ những gì diễn ra sau khi rời khỏi bệnh viện ở Mỹ”.
Người con gái gầy gò, ốm yếu, đầu
không còn tóc sau lần phẫu thuật ấy lê bước ra cổng bệnh viện ở thành phố New
York, chẳng một ai đến đón, chẳng biết đi đâu về đâu giữa nước Mỹ rộng lớn và
xa lạ. Và một câu hỏi luôn nhói lên: “Mình là ai?”.
Huyền đứng bên đường, túi chẳng có
một đồng, tài sản nếu kể ra thì chỉ còn bộ quần áo đang mặc mà thôi. Dường như
chẳng còn ai có thể nghèo hơn bởi vì ngay một kẻ hành khất rách nát nhất thì
vẫn còn ký ức, trí nhớ. Đói.
Cơn đói đến với Huyền chầm chậm
nhưng mỗi lúc một dữ dội. Huyền bỗng nhìn thấy một đám trẻ nhiều màu da đang đi
trên đường. Chẳng hiểu ai xui khiến, Huyền nhập vào đám trẻ đó. Đám trẻ đi vào
một nhà hàng để rửa thuê chai lọ. Huyền cùng làm việc với chúng. Gầy gò nhỏ bé,
trông cô gái người Việt này chẳng khác nào một đứa trẻ.
Vì thế mà ngay cả đám trẻ con cũng không nhận thấy có một người lớn nhập bọn. Công việc rửa chai lọ chỉ được trả công bằng một bữa ăn, không có tiền lương. Nhưng với Huyền như vậy cũng tốt lắm rồi, vì đó là cách giúp cô sống qua ngày trong cuộc hành trình tìm lại chính mình.
“LÀM ƠN CH BIẾT: TÔI LÀ AI?”
Hôm ấy đang rửa chai lọ ở nhà hàng,
Huyền được một bà người Hoa chuyên buôn đồ điện tử từ Trung Quốc sang, quan
tâm. Cảnh ngộ đặc biệt của Huyền đã khiến bà thương gia động lòng trắc ẩn, muốn
giúp đỡ đưa Huyền về quê hương.
Nhưng ngay cả đất nước của mình tên
gì, ở đâu Huyền cũng chẳng nhớ. May thay trong tiềm thức sâu thẳm của cô gái ấy
vẫn còn vẳng lên mấy từ ít ỏi: “Việt Nam – Hồ Chí Minh”. Những từ này chẳng
khác nào chiếc la bàn chỉ cho Huyền một hướng đi khi đang lạc giữa đại dương
bao la.
Bà thương gia Trung Quốc phán đoán
Huyền là người Việt Nam, nên đã hỏi cô có muốn về nước không? Huyền gật đầu.
Thế rồi Huyền lên chiếc tàu thủy chở hàng điện tử, nhắm mắt đưa chân, phó mặc
cho số phận. Huyền phải ngồi trong con-ten-nơ chở hàng.
Bóng tối dày đặc bao phủ. Nóng bức
đến ngộp thở. Say sóng. Tất cả khiến cho cô gái nhỏ bé ấy càng thêm buồn tủi.
Con tàu lênh đênh giữa đại dương bao nhiêu ngày Huyền chẳng biết, nhưng cũng đủ
dài để cảm thấy mình là tù nhân của bóng tối trong chiếc hộp sắt kín như bưng.
Một ngày nọ, tàu đến Trung Quốc. Sau
khi nghỉ ngơi vài ngày Huyền được bà thương gia đưa đến tận Lạng Sơn. Huyền qua
cửa khẩu Tân Thanh, đặt chân lên đất Việt. Lúc ấy, cô cũng chẳng biết Việt Nam
là một đất nước như thế nào, có khác gì Mỹ và Trung Quốc?
Điều mà cô nhận thấy rõ nhất: Nơi
đây cô có cùng ngôn ngữ với mọi người. Nhưng giữa miền miên viễn này, cô bỗng
có cảm giác giống như lúc bước chân ra khỏi bệnh viện ở Mỹ: không tiền, không
chốn nương thân, không trí nhớ…Và đói.
Huyền thất thểu bước đi trên đường,
gặp ai cũng hỏi một câu khiến cho người ta tưởng cô bị điên: “Anh ơi, chị ơi,
có biết tôi là ai không? Làm ơn cho tôi biết tôi là ai?”.
Huyền hy vọng có ai đó nhận ra mình.
Đáp lại là những cái lắc đầu, sự ngạc nhiên, giận dữ, thương hại… Nhưng Huyền
vẫn không nản lòng, cứ lang thang ở Lạng Sơn với câu hỏi có thể khiến mình bị
tống vào nhà thương điên.
Tiềm thức mách bảo Huyền tìm đến nhà
chùa để xin miếng ăn, chỗ ngủ qua đêm và dường như đó là cách duy nhất để tránh
những cạm bẫy ở tỉnh biên giới thường xẩy ra nhiều vụ bắt cóc, buôn bán phụ nữ
sang Trung Quốc.
Sau khi nghe Huyền kể hoàn cảnh, một
nhà sư đã khuyên cô xuống Hà Nội sẽ dễ kiếm sống và có nhiều cơ hội tìm được
gia đình hơn ở Lạng Sơn. Hà Nội ở đâu? Huyền hoàn toàn chẳng còn nhớ gì về Thủ
đô, nới cô đã từng sống thời sinh viên nhưng vẫn quyết đi về hướng ấy. Đi bộ.
Đi bộ vì không có tiền đi xe ô tô và
cũng vì một chút hy vọng mong manh: Có ai trên đường quốc lộ sẽ nhận ra mình
chăng? Huyền vượt qua quãng đường gần hai trăm cây số mà trong tay không có một
đồng.
Không hành lý. Đầu thế kỷ 21, giữa
nườm nượp ôtô, xe máy trên quốc lộ, một người con gái ốm yếu, đầu gần như không
còn tóc, cứ lầm lũi đi bộ về Hà Nội. Thân gái dặm trường, phía trước còn nhiều
gian nan lẫn cạm bẫy…
Lâm Thanh
Huyền và chiếc chứng minh thư đã giúp cô tìm lại gia đình
CHUYỆN CỔ TÍCH NGÀY CUỐI NĂM
Tưởng như cơ hội tìm thấy gia đình
đã tắt ngấm thì bỗng dưng nó lại đến với Lâm Thanh Huyền trong một tình huống
lạ lùng…
RỬA BÁT THUÊ, BÁN BÁNH MI VÀ ….LUYỆN
THI ĐẠI HỌC
Thỉnh thoảng cô gái đó dừng lại hỏi
thăm một câu đã trở thành cửa miệng: “Có người nào biết tôi là ai không…?”. Khi
màn đêm sắp sập xuống, cô gái tìm một ngôi chùa, xin chút cơm chay và ngủ nhờ.
Sáng sớm tinh mơ lại lên đường.
Đi như hành xác, gian nan khổ cực
như sang Tây Thiên lấy kinh. Điều mà Huyền luôn cố gắng để làm trong suốt chặng
hành trình ấy là kể cho người dân nghe hoàn cảnh của mình để mong tìm ra manh
mối gia đình.
Thế rồi, lần nọ sau khi nghe Huyền
kể, một người đàn bà Lạng Sơn đã nằng nặc nhận ngay cô chính là đứa con gái đã
mất tích của mình. Huyền cả tin, đã cùng người đàn bà đó về “nhà”.
Nhưng đến nơi, thấy anh em họ hàng
của người đàn bà hoàn toàn dửng dưng, Huyền mới nhận ra đây chẳng phải gia
đình, quê hương của mình. Cô lại ngược đường về Hà Nội.
Huyền chẳng nhớ thời gian đi bộ từ
Lạng Sơn về đến Hà Nội mất bao lâu, có lẽ phải một tháng hoặc hơn thế, chỉ biết
đôi giày đã mòn vẹt, gương mặt đã bạc đi vì nắng gió, bụi đường. Và cái đầu gần
như trọc ngày nào giờ tóc đã lên xanh.
Về đến Hà Nội, Huyền vẫn đối diện
với những con số không tròn trĩnh: không tiền, không nơi ở, không gia đình,
không trí nhớ… Huyền lại xin rửa bát cho quán cơm ở Cầu Giấy. Nhưng lần này với
Huyền rửa bát ở Cầu Giấy khác với rửa chai lọ bên Mỹ ở chỗ: được trả lương.
Ngày làm thuê, đêm về đã thành thói
quen, Huyền tìm tới các ngôi chùa xin ngủ nhờ. Và cũng đã thành một thứ phản
xạ: Huyền cứ đi hỏi những người dưng câu “điên rồ” cửa miệng: “Có biết tôi là
ai?…”. Nhưng càng hỏi, càng vô vọng.
Trong khi đó, gia đình ông Lâm Văn
Bảng ở Phú Xuyên – Hà Tây buồn như có tang. Sau một thời gian, không nhận được
thư hay bất cứ tin tức gì của con gái, ông Bảng đã gọi điện sang Australia hỏi
nhưng nhà trường cũng chỉ trả lời: Huyền không còn học ở đây nữa, chúng tôi
không biết em đi đâu. Tin nghe như sét đánh ngang tai.
Ông Bảng hốt hoảng định bay qua
Australia nhưng vợ ngăn lại vì sợ sang đó thì “chẳng tìm được con lại mất luôn
cả bố”. Gần như tuyệt vọng, sức khoẻ ông Bảng suy sụp.
Ở Australia, sau khi thấy Huyền đi
chữa bệnh rồi mãi không quay lại trường, tưởng cô đã về nước, bạn bè đã gom tất
cả đồ đạc gửi về Việt Nam. Trong đó có cả cuốn sách gương Nhân – Quả. Thế nhưng
địa chỉ họ gửi không rõ ràng nên những thứ đồ đó bị thất lạc.
Chẳng ai hay biết, Huyền đang rửa
bát thuê ở Cầu Giấy, cách gia đình có ba mươi cây số. Ngoài thời gian đi rửa
bát thuê, Huyền thường lân la lên hàng sách cũ ở vỉa hè đường Láng đọc nhờ.
Một chị chủ quầy sách thấy Huyền
hiền lành đã rủ về ở cùng nhà trọ gần trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Thế là
Huyền bỏ công việc rửa bát thuê, ngày đi bán sách với người đàn bà kia, tối đi
bán bánh mỳ. Khuya, Huyền chong đèn đọc sách.
Cô đọc ngấu nghiến như chưa bao giờ
được đọc. Huyền đói kiến thức. Tất cả những kiến thức trong đầu nữ sinh viên
xuất sắc ngày nào đã bị xóa sạch cùng với chứng mất trí nhớ.
Bằng cách đọc sách, Huyền học lại từ
đầu. Một đêm Huyền chỉ ngủ khoảng hai tiếng, thời gian còn lại cô “ngốn” những
cuốn sách cũ mà ban ngày sẽ bày bán ven đường Láng…Cuộc sống cứ thế trôi đi.
Đêm nọ, đi bán bánh mỳ về, Huyền
chẳng thấy người đàn bà ở cùng mình đâu nữa. Chị ta đã biến mất cùng với toàn
bộ số tiền mà Huyền bán bánh mỳ đạp xe rã cả chân một năm qua. Chỉ để lại một
số sách cũ. Huyền “tiếp quản” “gia tài” đó và vẫn tiếp tục bán sách.
Với lượng kiến thức đã đọc, Huyền tự
tin đến mức gõ cửa nhà người lạ xin… luyện thi đại học với điều kiện: nếu học
sinh tiến bộ mới nhận tiền. Thế rồi gia sư Lâm Thị Thanh Huyền dần dần được các
bậc phụ huynh hết sức tín nhiệm vì kết quả học tập của con em họ ngày càng tốt.
Người này giới thiệu người kia,
Huyền trở nên bận rộn với những “cua” dạy dày đặc. Có hôm, đạp xe mệt quá,
Huyền ngất giữa đường. Cũng may gần một hiệu thuốc, nên Huyền được cấp cứu
ngay. Tích cóp mãi rồi Huyền cũng mua được một chiếc xe máy. Nhưng “chó cắn áo
rách”, Huyền bị kẻ cắp lấy mất.
Trong một lần đi làm gia sư, Huyền
gặp một chàng trai. Chàng trai đó có tình cảm đặc biệt với cô gái dịu dàng này.
Nhưng khi anh ngỏ lời, Huyền đã nói thật về hoàn cảnh của mình. Chàng trai lại
càng yêu thương Huyền hơn và xin hỏi cưới. Nhưng Huyền bảo: “Em phải tìm được
gia đình mới tính chuyện chồng con”.
Chẳng hiểu sao mấy từ “Việt Nam – Hồ
Chí Minh” từ sâu thẳm tiềm thức đã luôn khiến Huyền nghĩ rằng: gia đình mình ở
thành phố mang tên Bác. Huyền đã toan khăn gói hành phương Nam, nhưng người yêu
ngăn lại.
Huyền đã sống ở Hà Nội gần bốn năm
mà chẳng một mảy may dấu hiệu nào cho thấy sẽ biết – mình – là – ai? Gia đình
mình ở đâu? Có lúc, Huyền đã lên truyền hình Hà Nội đăng nhắn tin tìm người
nhà. Nhưng tin nhắn trở nên ngây ngô và như gió bay lên trời khi mà bản thân
Huyền chẳng biết mình tên gì…?
3 CUỘC ĐIỆN THOẠI-MỘT CUỘC TRỞ VỀ
Cuộc sống ở trọ của Huyền buồn tủi
đến tê lòng mỗi khi Tết đến. Trong khi các gia đình sum họp, Huyền chẳng biết
đi đâu về đâu, có lúc nằm khóc một mình.
26 Tết năm 2005, sau khi đã cho học
sinh nghỉ, Huyền tìm một cuốn sách đọc cho vơi nỗi cô quạnh. Cô vô tình lấy một
cuốn sách mang tên “Gương Nhân- Quả”.
Cuốn sách được bọc cẩn thận bằng mấy
lớp giấy. Huyền bỗng tò mò bóc những lớp giấy ra để xem. Bóc hết lớp thứ nhất,
cô thấy kẹp giữa hai bìa sách là chiếc chứng minh thư nhân dân của một cô gái.
Kỳ lạ thay: gương mặt trong tấm ảnh
chứng minh thư nhân dân đó giống Huyền như hai giọt nước. Và cái tên trên chứng
minh thư: Lâm Thị Thanh Huyền, nghe như một tiếng vọng xa xôi từ ký ức đã ngủ
quên.
Huyền giật mình, tự hỏi: “Sao trên
đời này lại có người giống mình đến thế? Hay người trong chứng minh thư lại
chính là mình”. Cô định thần nhìn kĩ và phát hiện thấy chữ “Bang” và số điện
thoại đã mờ trên gáy sách. Sự tò mò xen lẫn chút hy vọng mong manh đã khiến
Huyền bấm máy gọi về số điện thoại ấy…
* * *
Từng bị giặc bắt giam ở “địa ngục
trần gian” Phú Quốc thời Mỹ ngụy nên ông Lâm Văn Bảng đam mê sưu tầm những kỷ
vật của đồng đội thời chiến tranh.
Cuối năm 2004, ông xây ngay trong
khu vườn – cạnh mấy gian trưng bày kỷ vật đồng đội – một ngôi đền nhỏ để ngày
ngày hương khói cho những anh linh đã hy sinh vì nước.
Đúng ngày 26 Tết, đền thờ liệt sỹ
khánh thành. Đang lúc bận rộn khách khứa, một hồi chuông điện thoại reo vang.
Bà Nguyễn Thị Lan – vợ ông Bảng nhấc máy. Phía đầu dây bên kia giọng một cô gái
rụt rè hỏi: “Thưa bác, đây có phải nhà bác Bang không ạ?” “Không phải, cô nhầm
rồi”. Bà Lan dập máy.
Nghe tiếng “rụp” đầu dây bên kia,
Huyền giật mình. Cô mơ hồ nhận thấy giọng người phụ nữ rất quen. Điều đó khiến
Huyền kiên nhẫn bấm máy lần thứ hai. Giọng người phụ nữ cáu bẳn: “Đã bảo không
phải rồi, sao gọi nhiều thế?”.
Huyền thẫn thờ ngồi ngắm mãi bức ảnh
“giống mình” trong chứng minh thư. Như có cái gì đó xui khiến, Huyền bấm máy
lần thứ ba. Chuông điện thoại lại reo giữa lúc nhà đang đông khách, bà Lan bảo:
“Chắc lại điện thoại của con bé đó, đã bảo không phải cứ hỏi mãi”.
Thấy vợ khó chịu, ông Bảng chạy lại
nhấc máy. Mặt ông tái đi khi nghe tiếng “Alô! alô! alô”. Một giọng nói quá quen
thuộc đã ăn vào máu thịt trong ông. Tiếng cô gái hỏi: “Dạ, thưa bác, nhà bác có
ai tên Huyền không ạ!?”.
Ông Bảng trở nên tê dại khi nghe câu
hỏi ấy. Linh cảm của người bố mách bảo: đúng con gái mình rồi. Ông hỏi trong
hoảng loạn: “Có, có, Huyền đấy à con. Ôi, ba đây mà, ba của con đây mà. Con
không nhận ra ba sao? Con đang ở đâu để ba đón về?” .
Người con gái nói nơi mình ở. Ông
Bảng vơ vội chiếc áo rét, gọi thêm vài ba người nữa rồi ào lên Hà Nội. Tuy vội,
ông vẫn không quên mang theo album ảnh gia đình.
Bước vào nhà Huyền, ông Bảng mừng
như điên dại khi thấy đứa con yêu đã mất tích gần một nghìn năm trăm ngày đang
đứng trước mặt mình. Ông ôm chầm lấy Huyền, nước mắt trào ra.
Nhưng Huyền vẫn không nhận ra người
đàn ông tóc bạc như cước ấy là bố mình. Cô gọi ông bằng bác như một người xa
lạ. Lần bị lừa ở Lạng Sơn khiến Huyền trở nên cảnh giác.
Chỉ sau khi ông Bảng đưa album ảnh
gia đình và kể lại chi tiết chuyện gia đình thì Huyền mới tin và lên xe về quê.
Cả đại gia đình như vỡ oà trong niềm vui.
Nhà ông Bảng đón một cái Tết vui
nhất trong đời. Họ hàng, làng xóm, lúc nào cũng đến kín nhà mừng cho sự trở về
vô cùng kỳ lạ của con gái ông. Sau Tết, Huyền làm đám cưới với chàng trai đã
yêu thương và chờ đợi mình. Cô đã tìm lại tên cho mình theo đúng nghĩa của cụm
từ này.
Tôi ngồi trong căn hộ chung cư tầng
10 ở khu bán đảo Linh Đàm (Hà Nội) – nơi Huyền ở bây giờ – một không gian yên
tĩnh, giản dị mà toát lên vẻ đầm ấm.
Có tiếng trẻ nhỏ khóc trong chiếc
nôi đặt giữa nhà. Huyền bế bé trai kháu khỉnh cô vừa sinh được hơn 2 tháng, nét
mặt tươi trẻ ngời lên niềm hạnh phúc như thể chưa từng trải qua những ngày
tháng khốn khổ đến tận cùng.
Huyền lấy cho tôi xem chiếc chứng
minh thư tìm thấy trong cuốn sách “Gương Nhân – Quả” mà giờ đây cô vẫn sử dụng.
Giọng Huyền trở nên bồi hồi: “Trong quãng đời – không- biết -mình-là -ai, tôi
thấy điều may mắn nhất là giữ được mình, không vướng vào những tệ nạn xã hội.
Và những lúc nguy nan nhất, tôi luôn
được những người tốt giúp đỡ. Bây giờ tôi ước làm sao gặp lại bà mẹ nuôi người
Pháp, thậm chí tôi đã học cả tiếng Hoa để mong có cơ hội gặp lại bà thương gia
Trung Quốc.
Ngay cả người đàn bà Thái Bình đã
lấy hết tiền của tôi tôi cũng biết ơn. Nếu không có người đàn bà đó, thì làm
sao tôi gặp lại cuốn Gương Nhân – Quả”.
Nhờ sự quan tâm của gia đình cũng
như người chồng hiền lành, chu đáo, trí nhớ của Huyền đã khôi phục được nhiều.
Cô nhớ rất nhanh những kiến thức được học chẳng khác nào thời còn sinh viên.
Bây giờ Huyền vẫn có một khoản thu
nhập ổn định bằng nghề dạy học. Huyền dạy học như một sự tri ân với cuộc sống
và tình thương của cô dành cho các em học sinh luôn khiến các bậc phụ huynh
ngạc nhiên, cảm động.
Sắp tới, Huyền dự định thi vào Đại
học Sư phạm với ước nguyện gắn bó với nghề giáo trọn đời. Tôi nghĩ khi người
con gái ấy đứng trên bục giảng, chỉ cần kể câu chuyện kỳ lạ của đời mình sẽ
khiến cho học trò tin trên đời vẫn có những chuyện cổ tích, vẫn có Gương Nhân –
Quả, ở hiền sẽ gặp lành…
************
Sau 3 năm gặp lại, bây giờ Huyền đã
học năm cuối ở Học viện Quản lý Giáo dục để thực hiện ước nguyện gắn bó với
nghề giáo trọn đời. Tôi nghĩ khi Huyền đứng trên bục giảng, chỉ cần kể câu
chuyện kỳ lạ của đời mình sẽ khiến cho học trò tin trên đời vẫn có những chuyện
cổ tích, vẫn có Gương Nhân – Quả, ở hiền sẽ gặp lành… Như thế chắc còn hơn ngàn
lời giáo huấn sáo rỗng.
Vừa học vừa mở lớp dạy thêm ngay
trong nhà mình, mỗi ngày Huyền “chạy” bốn năm “sô”, các môn Toán, Lý, Hoá,
Tiếng Anh. Huyền dạy học như một sự tri ân với cuộc sống và tình thương của cô
dành cho các em học sinh luôn khiến các bậc phụ huynh ngạc nhiên, cảm động. Vì
thế học sinh tìm đến với Huyền ngày một đông.
Ngày tôi đến, cậu con trai Huyền còn
nằm trong nôi, giờ đây đã sắp sửa vào lớp một. Căn hộ chung cư ở tầng 10 bán
đảo Linh Đàm luôn đầy ắp tiếng cười. Huyền ngượng ngùng không muốn cho tôi chụp
ảnh vì ông xã không thích câu chuyện của vợ được đưa lên báo. Tôi thì cần có
một tấm hình của Huyền để bạn đọc yên tâm rằng câu chuyện mang màu sắc cổ tích
này là có thật. Nhưng tôi cũng không muốn cuộc sống bình yên của Huyền giờ đấy
có thêm bất cứ xáo động nào nữa sau những bão tố vừa qua.
Thay vào đó, chúng tôi đã tìm về
thôn Nam Quất, xã Nam Triệu, huyện Phú Xuyên – Hà Tây để gặp ông Lâm Văn Bảng –
bố đẻ của Huyền. (Bấm bào đây --->).Ông Bảng đã tiết lộ
về câu chuyện kỳ lạ của con gái gắn với cuốn sách Gương Nhân Quả mà ông tặng
Huyền.
--------------------------------------------
Ghi chép của Phùng Nguyên
Theo bào Tiền Phong từ 16/9/2011
Video : Lời kể của ông Bố:
Tôi thấy dài và đang bận nên chưa đọc trên blog cụ TH, qua nhà cụ thấy cụ lôi về (lúc này là 5g), đọc xong thấy hay quá-chuyện này như cổ tích thật, cô này toàn gặp may trong lúc tưởng rằng không thể vượt qua, nếu nói về luật nhân quả thì cô gái này được hưởng một phần phúc đức của người cha và bản thân cô ấy kiếp trước cũng giúp đỡ nhiều người nên kiếp này họ trả nợ?
Trả lờiXóaCó lẽ là vậy chị HPĐ ạ...Cô gái vừa giỏi dang vừa may mắn!
Trả lờiXóaThật là nhân văn nhỉ -chuyện đời thường mà xúc động quá .....
Trả lờiXóaĐúng là Ở hiền gặp lành ! Chuyện thật mà như cổ tích .
Trả lờiXóa