NGUYỄN AN XÂY DỰNG TỬ CẤM THÀNH
Trần Hưng - Đa chiều Thứ 7 24/6/2017
Người
Trung Hoa vốn tự hào về Tử Cấm Thành nguy nga và đồ sộ nằm tọa lạc ở trung tâm
thủ đô Bắc Kinh, tòa thành gồm 980 tòa nhà nằm trên diện tích 720.000 m2 này
thu hút hàng triệu du khách đến tham quan mỗi năm, được UNESCO công nhận là di
sản thế giới vào năm 1987.
Thế
nhưng ít ai có thể ngờ rằng niềm tự hào của người Trung Hoa lớn hơn cả Vatican
này lại được thiết kế bởi một người Việt tên là Nguyễn An, ông là Tổng công
trình sư và là Kiến trúc sư trưởng của Tử Cấm Thành.
Tử Cấm Thành
Tử
Cấm Thành. (Ảnh từ internet)
Nhân
tài xuất chúng được lựa chọn
Ông
Nguyễn An sinh năm 1381 ở Hà Đông, thuở
nhỏ ông đã nổi tiếng khắp vùng với đôi tay tài hoa và khéo léo. Vì thế mà năm
1397, khi vua Trần Thuận Tông xây dựng sửa chữa kinh thành Thăng Long, ông đã
được mời vào nhóm thợ chính tham gia xây dựng dù mới chỉ 16 tuổi.
Năm
1407 quân Minh đánh bại nhà Hồ, bắt được hai cha con Hồ Qúy Ly, nhà Minh cũng
lùng tìm những tài năng đất Việt đưa về phương bắc như Phạm Hoằng, Vương Cấn, Hồ
Nguyên Trừng… cùng những danh y thời đấy cũng đều bị bắt sang Trung Quốc.
Đại
Việt Sử ký Toàn thư cũng có ghi chép rằng: “Người Minh lùng tìm những người ẩn
dật ở rừng núi, người có tài có đức, thông minh chính trực, giỏi giang xuất
chúng, thông kinh giỏi văn, học rộng có tài, quen thuộc việc quan, chữ đẹp tính
giỏi, nói năng hoạt bát, hiếu để lực điền, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh dũng cảm,
quen nghề đi biển, khéo các nghề nung gạch, làm hương… lục tục đưa dần bản thân
họ về Kim Lăng”.
Nguyễn
An cũng nằm trong số những tài năng bị đưa sang Trung Quốc với tên gọi là A Lưu
(tên tiếng Hán của Nguyễn An), thời điểm này vua Minh Thành Tổ đang trị vì và
đang gấp rút xây dựng kinh đô mới ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Việc xây dựng một
kinh thành nguy nga tráng lệ và đồ sộ như vậy đòi hỏi phải có một nhân tài kiệt
xuất về kiến trúc và thiết kế, ngay thẳng chính trực và không vụ lợi.
Những
tài được lựa chọn có Nguyễn An, Sái Tín, Trần Khuê, Ngô Trung, Khoái Tường và Lục
Tường. Nhận thấy Nguyễn An là người công minh chính trực, liêm khiết, lại có
tài thiết kế, nên Vua tin tưởng giao cho ông làm Tổng công trình sư, chịu trách
nhiệm thiết kế, đôn đốc xây dựng cung đình; ông là người chịu trách nhiệm quyết
định tối cao cho công trình, chỉ sau vua Minh Thành Tổ.
Nguyễn
An phải vất vả với các việc như vẽ thiết kế, đào tạo nhân lực, cho đến chỉ đạo
thi công và giám sát hiện trường.
Tử Cấm Thành
Một
góc Tử Cấm Thành. (Ảnh từ lotuspro.net)
Tài
năng giúp hoàn tất xây dựng Tử Cấm Thành
Tử
Cấm Thành được xây từ năm 1406 đến 1420 thì hoàn tất, trong suốt 13 năm ấy Nguyễn
An đã phải chịu rất nhiều sức ép từ vua Minh Thành Tổ.
Tương
truyền khi xây dựng tòa thành tại 4 góc của Tử Cấm Thành, Nguyễn An đã trình hết
bản thiết kế này đến bản thiết khác nhưng vẫn không được chấp nhận. Quá nóng giận
vua Minh Thành Tổ ra lệnh nếu Nguyễn An không thể đưa ra bản thiết kế khiến ông
ta ưng ý thì ngày mai đầu sẽ lìa khỏi cổ.
Nguyễn
An đã phải làm việc suốt đêm đó, cuối cùng Nguyễn An lấy ý tưởng từ chiếc lồng
nuôi dế mà ông đang nuôi để thiết kế ra tòa thành có mái xếp tầng tầng lớp lớp.
Và đến nay, tòa thành đó được coi như biểu tượng đặc trưng của Tử Cấm Thành.
Tử Cấm Thành
Một
góc Tử Cấm Thành. (Ảnh từ lotuspro.net)
Rất
nhiều câu chuyện về tài năng của Nguyễn An khi xây dựng Tử Cấm Thành còn lưu
truyền đến ngày nay. Ví như Việc vận chuyển những khối đá nặng đến hàng trăm tấn
vào thời đó là không thể, thế nhưng Nguyễn An qua quan sát đã nghĩ ra cách vận
chuyển mà hậu thế đến nay vẫn còn khâm phục.
Nhận
thấy khu vực khai thác đá ở nơi lạnh lẽo -20oC, ông đã cho đào một rãnh nước có
chiều ngang bằng tảng đá kéo dài đến nơi xây dựng, sau đó đổ nước sông vào. Nước
nhanh chóng bị đông cứng tạo thành một đường băng trơn trượt từ mỏ đá đến kinh
thành, khiến việc vận chuyển những tảng đá khổng lồ hàng tăm tấn trở nên dễ
dàng.
Sách
“Kinh thành ký thắng” của Dương Sĩ Kỳ viết mô tả rằng: “Nguyễn An tự tay vạch
kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng
với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông
chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng”.
Các
nhà khoa học ngày nay cũng phải đau đầu
Có
một giai đoạn các nhà nghiên cứu khoa học khi tìm hiểu Từ Cấm Thành đều đau đầu
không hiểu thời đấy làm sao có thể vận chuyển những khối đá nặng đến 300 tấn để
xây dựng, các phương tiện thời ấy là không thể.
Chỉ
đến khi họ tìm hiểu từ các tài liệu ghi chép vào thời đó thì bí ẩn này mới được
giải mã, đó là vận chuyển bằng con đường băng, nước được lấy từ sông và giếng
đào ở hai bên đường gặp thời tiết lạnh tạo thành con đường băng để vận chuyển
những khối đá khổng lồ. Đây chính là ý tưởng của Nguyễn An khiến ngày nay nhiều
người phải khâm phục.
Sau
khi công trình được xây xong Nguyễn An được vua Minh thưởng cho 50 lạng vàng,
100 lạng bạc, 8 tấn thóc và 1 vạn quan tiền.
Tử
Cấm Thành
Anh
4 Tử Cấm Thành trong bức tranh từ thời nhà Minh, hiện được lưu giữ ở
bảo tàng
quốc gia tại Bắc Kinh. (Ảnh từ Wikipedia.com)
Kiến
trúc thể hiện kính ngưỡng trời đất, “thiên nhân hợp nhất”
Một
số phân tích cho thấy Tử Cấm Thành có thấp thoáng lối kiến trúc của người Việt
xưa. Giáo sư Trần Ngọc Thêm phân tích cho thấy rằng: So với kiến trúc các kinh
thành trước đó thì Tử Cấm Thành có hai điểm mới, thứ nhất các kinh thành cũ có
kiến trúc hình vuông thì Tử Cấm Thành là hình chữ nhật; thứ hai các công trình
khác chỉ có 1 hoặc 2 lớp vòng bảo vệ thì Tử Cấm Thành có 3 lớp vòng bảo vệ (tam
trùng thành quách), hai điểm thay đổi này giáo sư cho rằng là do chịu ảnh hưởng
của tư duy kiến trúc Việt.
Tử
Cấm Thành được xem là tinh hoa của văn hóa 5.000 năm, thể hiện sự kính ngưỡng
trời đất, trọng đạo, tuân theo thuyết “thiên nhân hợp nhất”, âm dương hòa hợp.
Chữ
“tử” trong “Tử Cấm Thành” là màu tím, lấy ý từ thần thoại về Tử Vi Viên là nơi ở
của Trời trên thiên thượng, Tử Cấm Thành được xây dựng phỏng theo thiên cung
trên trời.
Trung
tâm Hoàng Thành là Cung Thành, trung tâm Cung Thành là điện Phụng Thiên (thời
nhà Thanh đổi tên thành điện Thái Hòa), đây là điện lớn nhất trong Tử Cấm
Thành, tên “”phụng thiên” nghĩa là vâng theo mệnh trời, tuân theo thiên ý . Từ
“phụng thiên” là lấy câu đầu trong câu “Phụng thiên thừa vận, thụ mệnh vu
thiên” “Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ; dân tâm vô thường, duy huệ chi
hoài” (nghĩa là: “Tuân theo vận trời, vâng theo mệnh lệnh từ Trời”, “Trời xanh
không kể thân thích, chỉ trợ giúp người có Đức, lòng người thay đổi vô thường,
chỉ ban ân huệ cho người có tấm lòng”). Mệnh trời chỉ chiếu cố cho những vị Vua
có đức, nếu Vua thất đức thì Vương Triều
sẽ suy sụp. Do đó các bậc Đế Vương cần
tu thân tích đứng để xứng với mệnh trời.
Điện Thái Hòa
Điện
Phụng Thiên (từ thời nhà Thanh gọi là điện Thái Hòa) nằm ở
trung tâm của Tử Cấm
Thành. (Ảnh từ wikiwand.com)
Hoàng
Đế ở Càn Thanh cung, Hoàng Hậu ở Khôn Ninh cung, càn khôn là trời đất, biểu tượng
giao hòa âm dương.
Cách
bố trí của Tử Cấm Thành không một chi tiết nào là ngẫu nhiên, bởi tất cả đều dựa
trên những chuẩn mực lâu đời và mang một ý nghĩa biểu trưng nào đó.
Trị
thủy sông Hoàng Hà
Không
chỉ xây dựng Tử Cấm Thành, các công trình lớn khác Nguyễn An cũng tham gia, như
trị thủy sông Hoàng Hà.
Những
trận lũ lụt lớn trên sông Hoàng Hà vào các năm 1444 – 1445 vua Minh đều tin tưởng
cử Nguyễn An đi sửa sang lại đê điều.
Ông
đích thân chỉ huy việc đắp những con đê lớn tại những nơi xung yếu cũng như đào
đắp những công trình thủy lợi lớn.
Những
năm cuối đời dù tưổi cao sức yếu ông vẫn miệt mài trị thủy giúp dân
Năm
1453 dù đã 73 tuổi, ông vẫn đến Sơn Đông
trị thủy và mất dọc đường. Lúc sắp mất
ông vẫn canh cánh trong lòng nỗi lo người dân Sơn Đông đói khổ vì lũ lụt, ông
trăn trối rằng: Đừng xây lăng mộ cho ông như những người có công thời ấy thường
làm, mà nên đem toàn bộ của cải của ông góp vào quỹ công, để phát chẩn cho dân
bị lụt ở Sơn Đông, những nơi ông đang đi mà chưa tới.
Nhà
sử học Trương Tú Dân nhận xét rằng về Nguyễn An là: “hết lòng vì công việc,
thanh bạch, liêm khiết, khắc khổ, khi lâm chung không có nén vàng nào trong
túi, là một con người cao thượng, chỉ để lại công đầu ở Bắc Kinh”.
Nhiều
sách sử của Trung Quốc như “Hoàng Minh thông kỷ”, “Anh Tông chính thống thực lục”,
hay “Kinh kỳ ký thắng” và “Thủy Động nhật ký”,… đều ghi nhận công lao to lớn của
Nguyễn An
Trần
Hưng
(Tin
Đa Chiều)