Như đã giới thiệu, cuối tháng 2 vừa rồi, một nhóm cựu học sinh trường Thiếu nhi Việt Nam (1953-1958), gồm 15 cụ tuổi đời đều trên dưới 70, đã tổ chức Hành hương lên chiến trường xưa thuộc 2 tỉnh biên giới phía Bắc là Cao Bằng và Lạng Sơn, nơi 35 về trước, cũng vào tháng 2 đã diễn ra cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của quân và dân ta chống lai quân xâm lược Trung Quốc. Bài ghi chép sau đây của TSKH Trần Xuân Hoài, một cựu học sinh trường "Quế Lâm dục tài học hiệu"phản ánh suy nghĩ chung của tất cả các bạn cùng trang lứa từng sống và học tập 1 thời gian trong sự đùm bọc của nhân dân Trung Hoa thời ấy cũng vừa được giải phóng .
![]()  | 
| Tác giả : TS Trần Xuân Hoài | 
Ghi chép của Xuân Hoài
Mông mênh miền biên giới
Rầu rầu nghẹn tiếc thương
Lom khom nấm mộ cỏ
Rõi rõi theo dọc đường
(Thơ Song Thu)
Ngồi trước màn hình , nhiều cảm
 xúc quá , mãi mà chưa biết bắt đầu viết về chuyến hành hương như thế 
nào thì nhận được email của Song Thu : “… anh vào Blog em đọc thơ thẩn của em nhé!”. Bài thơ dài man mác, các bạn vào “Hoa sim tím” mà đọc nguyên văn. Với tôi , chỉ hai mươi chữ này thôi , đã đủ lay động lòng người, đã nói giùm cả con đường biên giới mông mênh, chứ không phải mênh mông
 đâu, mênh mông là trời biển kia…còn đây là con đường biên giới len lỏi 
giũa những đèo cao,vực sâu , khe núi hẹp , lên rồi lại xuống mông mênh, 
bồng bềnh trên mây ngàn , dập dình theo bánh xe lăn , chênh vênh như 
lòng người hành hương lên ải bắc mù sương. Ai đó lại hỏi , sao lại nói 
là lên ải Bắc. Đúng quá bạn ơi. Đích đến hôm nay là Cao Bằng. 
Thành lũy ở Cao Bằng đã từng  là hoàng cung của một quốc gia. Nhiều giả 
thuyết cho rằng Cao Bình xưa đã từng là cố đô của Thục Phán nước Âu 
Việt- về sau hợp nhất với Lạc Việt của Vua Hùng ,thành An Dương Vương, 
vua nước Âu Lạc, thiên đô về Cổ loa. Đến đời nhà Lý năm 1038 Nông Tồn 
Phúc cát cứ vùng này, xưng đế hiệu, đặt tên nước là Trường Sinh. Năm 
sau, vua Lý Thái Tông thân chinh dẹp yên, nhưng
 đến năm 1041 con Nông Tồn Phúc là Nông Trí Cao lại dấy binh, đặt tên 
nước là Đại Lịch, vua Lý Thái Tông sai tướng lên đánh bắt được đem về 
Thăng Long, rồi dùng chính sách chiêu an tha cho về phong làm Quảng 
Nguyên mục, sau gia phong tước Thái Bảo. Năm 1048 Nông Trí Cao xưng là 
Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam, đem quân sang đánh nước Tàu, 
chiếm 8 châu ở Quảng Đông, Quảng Tây, nhà Tống phải cử tướng Địch Thanh 
thảo phạt. Bị thất bại, Nông Trí Cao chạy trốn sang nước Đại Lý và bị 
bắt giết. Hơn bốn trăm năm sau, Nhà Mạc bị nhà Lê đánh đuổi cũng rút lên
 đây, nhà Mạc lập cung điện tại Gò Long trong thành Nà Lữ của Nông Trí 
Cao. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di 
chúc cho Mạc Kính Cung: "Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục 
hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại 
nỡ thế. …Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải 
lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng" (theo Đại Việt 
sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294). Đại Việt và vùng 
Cao Bằng bất đắc dĩ đã là hai quốc gia, nên quân lính Việt lên Cao bằng 
là lên nơi biên ải, có câu ca não nuột khi anh lính chia tay vợ con: Con cò lặn lội bờ sông/Gánh gạo đưa  chồng tiếng khóc nỉ non/Nàng về nuôi cái cùng con/Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng. 
 đến năm 1041 con Nông Tồn Phúc là Nông Trí Cao lại dấy binh, đặt tên 
nước là Đại Lịch, vua Lý Thái Tông sai tướng lên đánh bắt được đem về 
Thăng Long, rồi dùng chính sách chiêu an tha cho về phong làm Quảng 
Nguyên mục, sau gia phong tước Thái Bảo. Năm 1048 Nông Trí Cao xưng là 
Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam, đem quân sang đánh nước Tàu, 
chiếm 8 châu ở Quảng Đông, Quảng Tây, nhà Tống phải cử tướng Địch Thanh 
thảo phạt. Bị thất bại, Nông Trí Cao chạy trốn sang nước Đại Lý và bị 
bắt giết. Hơn bốn trăm năm sau, Nhà Mạc bị nhà Lê đánh đuổi cũng rút lên
 đây, nhà Mạc lập cung điện tại Gò Long trong thành Nà Lữ của Nông Trí 
Cao. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di 
chúc cho Mạc Kính Cung: "Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục 
hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại 
nỡ thế. …Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải 
lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng" (theo Đại Việt 
sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294). Đại Việt và vùng 
Cao Bằng bất đắc dĩ đã là hai quốc gia, nên quân lính Việt lên Cao bằng 
là lên nơi biên ải, có câu ca não nuột khi anh lính chia tay vợ con: Con cò lặn lội bờ sông/Gánh gạo đưa  chồng tiếng khóc nỉ non/Nàng về nuôi cái cùng con/Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng. 
Đoàn 15 cựu học sinh LSQL từ K3 đến K6 hành hương biên giới trực chỉ Cao Bằng theo cao tốc Hà nội –Thái Nguyên, chưa đầy 2 tiếng đồng hồ , đã đến ngã ba Bờ Đậu, nhanh quá khiến cho Cụ Khoa Phi ,
 người 35 năm 6 tháng đã lăn lộn dâng cả cuộc đời trai trẻ cho Gang thép
 Thái Nguyên chưa kịp chỉ dẫn hết các địa danh lịch sử thủ đô kháng 
chiến vừa đi qua , những bi hài của Khu Gang thép đầu tiên lớn nhất VN 
với sản lượng đâu như chỉ 0,2 triệu tấn/năm và cuộc đời một kỹ sư Gang 
Thép. Bánh chưng Bờ Đậu không 
biết
 vì sao lại nổi danh như cồn , nay mới được dịp kiểm chứng. Quả thực 
danh bất hư truyền, dù vừa no nê bánh chưng tết Giáp Ngọ ,thế mà chiếc 
bánh chưng gọn gàng bằng ¼ bánh chưng tết , thơm lừng đã hấp dẫn tôi vô 
kể, khiến không thể không thưởng thức. Ngon hơn Hà nội là cái chắc! Các 
chị đã nhanh chóng gói ghém, thu gom mấy cái bánh chưng để dự phòng cho 
chuyến đi, là một “bằng chứng khách quan”. Nhưng cũng phải nói thêm là 
bánh giò Bờ Đậu thì không thể sánh với bánh giò Hà nội nóng hổi , nhất 
là thưởng thức vào những đêm đông lạnh giá !
biết
 vì sao lại nổi danh như cồn , nay mới được dịp kiểm chứng. Quả thực 
danh bất hư truyền, dù vừa no nê bánh chưng tết Giáp Ngọ ,thế mà chiếc 
bánh chưng gọn gàng bằng ¼ bánh chưng tết , thơm lừng đã hấp dẫn tôi vô 
kể, khiến không thể không thưởng thức. Ngon hơn Hà nội là cái chắc! Các 
chị đã nhanh chóng gói ghém, thu gom mấy cái bánh chưng để dự phòng cho 
chuyến đi, là một “bằng chứng khách quan”. Nhưng cũng phải nói thêm là 
bánh giò Bờ Đậu thì không thể sánh với bánh giò Hà nội nóng hổi , nhất 
là thưởng thức vào những đêm đông lạnh giá !
Thái Nguyên-Bắc Kạn đường số 3 hẹp lại, không còn cao tốc nữa, 
chạy dài theo ký ức. Đa phần  trong chúng ta 60 năm trước đều đã ở đây, 
qua đây , hoặc để lên Cao bằng qua biên giới sang Tâm Hư KHX rồi sau lên
 Quế Lâm , hoặc để sang Lạng sơn qua Bằng Tường. Ít nhất thì ai cũng đã 
thuộc lòng những địa danh 
Than Phấn Mễ, Thiếc Cao Bằng/Phố phường như nấm như măng giưa trời (Việt
 Bắc). Lần lượt qua những địa danh Quán triều, Phấn mễ, Phú Lương, đến 
Cầu Chợ Mới là biên giới Thái Nguyên –Bắc Kạn. Anh bạn Nguyễn Bá Tuân (K4) từ Tây ninh ra , đã cẩn thận ghi lại một CD những 
bài ca TQ thân quen thời Dục Tài Học Hiệu. Thế là những giai điệu ”Mặt 
trời không lặn trên thảo nguyên” hay “xung chiu chiu , xi oang oảng…” 
của bài Kháng Mỹ Viện Triều vang lên trên xe, khiến hồi ức trở lại 60 
năm trước , vô tư và trong sáng biết bao, làm rút ngắn đường dài. Phút 
chốc 80 km Thái Nguyên-Bắc Kạn đã hết, cả đoàn dừng lại ghé thăm thị 
trấn, à quên, TP miền núi mà ngày xưa nhiều kẻ trong hội ta từng trú ngụ
 hoặc đi qua. Đây cũng là nơi mà sáng 7-10-1947 Pháp nhảy dù xuống để 
mưu tóm gọn Chính phủ Kháng chiến. Chuyện kể rằng :Một tên đội tây lai 
bỗng nhào vào đám đông dân mắc nạn, vỗ vai một ông cụ có bộ râu thưa, 
trông rất chững chạc, rồi ngẩng mặt lên trời cười hô hố:
- Oh! Monsieur le President! (Ồ! Ngài Chủ tịch!)
Ngày 8-10-1947, ngay sau khi được tin ‘“đã bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh”, Bô-la, Cao ủy Pháp ở Đông Dương, lập tức từ Sài Gòn bay ra Hà Nội. Vừa bước xuống sân bay Gia Lâm, không để y nói lời chúc tụng binh sĩ, Xa-lăng đã báo cáo:
- Chúng tôi... chúng ta đã bị lầm.
Than Phấn Mễ, Thiếc Cao Bằng/Phố phường như nấm như măng giưa trời (Việt
 Bắc). Lần lượt qua những địa danh Quán triều, Phấn mễ, Phú Lương, đến 
Cầu Chợ Mới là biên giới Thái Nguyên –Bắc Kạn. Anh bạn Nguyễn Bá Tuân (K4) từ Tây ninh ra , đã cẩn thận ghi lại một CD những 
bài ca TQ thân quen thời Dục Tài Học Hiệu. Thế là những giai điệu ”Mặt 
trời không lặn trên thảo nguyên” hay “xung chiu chiu , xi oang oảng…” 
của bài Kháng Mỹ Viện Triều vang lên trên xe, khiến hồi ức trở lại 60 
năm trước , vô tư và trong sáng biết bao, làm rút ngắn đường dài. Phút 
chốc 80 km Thái Nguyên-Bắc Kạn đã hết, cả đoàn dừng lại ghé thăm thị 
trấn, à quên, TP miền núi mà ngày xưa nhiều kẻ trong hội ta từng trú ngụ
 hoặc đi qua. Đây cũng là nơi mà sáng 7-10-1947 Pháp nhảy dù xuống để 
mưu tóm gọn Chính phủ Kháng chiến. Chuyện kể rằng :Một tên đội tây lai 
bỗng nhào vào đám đông dân mắc nạn, vỗ vai một ông cụ có bộ râu thưa, 
trông rất chững chạc, rồi ngẩng mặt lên trời cười hô hố:- Oh! Monsieur le President! (Ồ! Ngài Chủ tịch!)
Ngày 8-10-1947, ngay sau khi được tin ‘“đã bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh”, Bô-la, Cao ủy Pháp ở Đông Dương, lập tức từ Sài Gòn bay ra Hà Nội. Vừa bước xuống sân bay Gia Lâm, không để y nói lời chúc tụng binh sĩ, Xa-lăng đã báo cáo:
- Chúng tôi... chúng ta đã bị lầm.
Người mà quân Pháp nhầm tưởng là Chủ tịch Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Văn 
Tố, lúc đó là Trưởng ban thường trực Quốc hội (khóa 1). Khi biết không 
phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân Pháp đã bắn chết cụ Nguyễn Văn Tố. Cụ
 là nhà lãnh đạo cao nhất của Nhà nước ta hy sinh trong chiến dịch Thu 
Đông năm 1947.
![]()  | 
| Vũ Thu Giang ( Song Thu) em bé bên trái và bây giờ | 
Chí
 Minh làm thơ tặng TNXP cách trụ sở xã khoảng 60m. Di tích quốc gia Nà 
Tu này khá đẹp, nhưng…lạ là quanh năm cửa đóng then cài , không ai được 
vào thăm. Chúng tôi đành đứng ngoài chụp mấy kiểu ảnh , và lại lên xe đi
 tiếp. Ngậm ngùi không biết các bậc tiền bối xả thân 60 năm trước nghĩ 
gì nếu lớp hậu sinh đầy quyền lực ngày nay ngầm chế  lại thành câu “chỉ sợ tiền không nhiều, đào núi và lấp biển , không làm được thì thuê”.
 Bất chợt lại nhớ đến lời ông Tổng cục trưởng Cục Khoáng sản, đại ý 
rằng: khoảng 60% doanh nghiệp phía sau lưng họ đều là  doanh nhân Trung 
Quốc để khai thác khoáng sản, chưa nói đến nhiều doanh nghiệp tỉnh cấp 
cho người Trung Quốc. Rồi cũng thấy chạnh lòng nhớ lại cảnh Boxit Nhân Cơ
 mấy tháng trước tôi vừa tới thăm. Sự thật đâu chỉ có Nhân cơ, có“ tới 
90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất…của 
Việt Nam đều do Trung Quốc đảm nhiệm.” Đúng là “không làm được thì thuê”
 TQ làm bằng đồng tiền cóp nhặt của dân đen, để còn…, Thôi không được 
suy nghĩ miên man nữa XH  Chú ý kìa, cô em út Thu Giang (K3) , 
nhân vật VIP nổi danh ngày xưa năm 1951 chụp bức ảnh nổi tiếng với Bác 
Hồ, đâu đây ở đoạn này, đang bắt nhịp hát các bài ca yêu thích một thời 
của LSQL. Thu
 Giang đã cẩn thận in cho mỗi người môt tập lời ca các bài hát xưa , để 
nay cùng hát vang đường, một bên là vách núi, một bên là nhánh Sông Cầu,
 thật là hợp với giọng ca chênh vênh của tuổi thất thập. Hát xong , các 
cá nhân bắt đầu trổ tài. Đầu tiên là anh Nguyễn Hồng Nhật (K6, lớp anh cả của LSQL) đọc thơ vui về Hằng Nga-Chú Cuội làm mọi người cười lăn cười bò. Chắc là Calathau
 cài gián điệp hay sao mà lại nghe được, bèn đăng lên đình làng ngay 
chuyện Hằng Nga tát Cuội khờ , vì tội không biết tiến xa một gang xuống 
dưới rốn nàng…Năm chúng tôi 10,11 tuổi, anh Hồng Nhật vốn là Trung Đội 
phó ,còn Khoa Phi là tiểu đội trưởng dưới quyền ,chỉ huy bọn lính trơn Hồ Uy Liêm , Nhật Lệ…và tôi, trong Đoàn Thiếu sinh LK4 (Đoàn 
10) , hành quân ra Việt Bắc năm 1953. Xe đã qua Phủ thông
 , một địa danh quen thuộc với thiếu sinh quân chúng ta. Ngoài xe , trời
 bắt đầu mù sương che lấp dần những ngọn núi như răng cưa của các dãy 
núi thuộc vòng cung Ngân sơn. Trưởng lão của Làng, Cụ Trịnh Bá Phiến
 , con rể QLLS năm nay đã bát tuần, tóc bạc như cước, mà cường tráng, 
nhanh nhẹn hơn nhiều cụ mới lục tuần, trình làng những bài thơ vui , 
những giai thoại văn chương của các ông Đồ Nghệ. Chuyện thơ, chuyên văn 
hấp dẫn quá , cho đến lúc một ai đó trong đoàn bỗng nhắc, đến chỗ rẽ đi 
Na rì rồi, có ai biết có gì đặc biệt đây không. Mọi người ngớ ra, mãi 
mới có người lên tiếng, là quê hương của kỹ sư lâm nghiệp một thời tiếp 
chiếu nhận 16 chữ vàng của thiên triều ban, để ký và ra sức thực hiện 
cho bằng được Boxit Tây Nguyên…và
 nhiều chuyện khác nữa . À, thì ra là vậy. Thế thì cũng nên ghi vào ký 
sự hành trình này cho con cháu đời sau phán xét. Đường càng ngày càng 
lên cao, mặt đường tốt ,nhưng quanh co, lại thêm xe Container chạy dồn 
dập làm cho tốc độ bị châm rất nhiều. Hỏi ra mới biết , dạo này TQ đổi ý
 thế nào đó mà biên mậu chuyển trọng điểm sang cửa khẩu Tà Lùng Cao Bằng, cho nên đường này giờ 
tấp nập xe hàng. Biết chắc rằng không thể đến Cao Bằng trước buổi trưa, 
cả đoàn bỏ phiếu nhất trí nghỉ lại ăn trưa ở đỉnh đèo Gió , cao hơn ngàn
 mét so với mặt biển. Gió đâu không biết , nhưng mây thì đầy. Mây chui 
cả vào trong xe , trong nhà . Hở ra là chui vào. Sống trong mây mù ,thì 
nước không phải từ trên trời xuống, mà là bay ngang, thậm chí bay từ 
dưới lên, chỉ khổ cho các cô nàng mặc váy. Tuy vậy , bữa cơm trưa trong 
mây thì ngon đáo để, ai cũng ăn uống hăng hái như trai trẻ và cũng bia 
rượu (mang từ nhà đi) rôm rả. Vui quá, lại nghĩ tiếc cho những cụ ngại 
ngần mà không dám đi xa , lúc còn đi được. Xuống đèo mới năm phút thì đã
 khác hẳn, mây đã bớt và không khí đã ấm dần, đến huyện lỵ Ngân Sơn thì 
gần như bình thường, ấm hơn dù còn khá cao so với biển. Đã gần 3 giờ 
chiều rồi, còn 50 km nữa mới đến Cao Bằng. Phải hội ý gấp để quyết định 
đổi lịch trình. Cả đoàn quyết định đi thẳng đến thăm duy nhất một danh 
thắng và di tich văn hóa quốc gia là đền Kỳ Sầm, thờ Nùng Trí Cao , xong
 mới vào Thành Phố Cao Bằng. Các điểm dự tính khác không còn kịp thăm 
trước khi trời tối. Nếu không bị chậm mất hơn 3 giờ so với kế hoach , do
 bị mây mù và xe siêu trường siêu trọng chẹn đường thì các Cụ đã có thể 
ăn trưa Cao Bằng, vào KS nghỉ ngơi, 4 giờ chiều mới đi thăm thú. Chỉ lo 
các cụ mêt, thế mà tất cả ai cũng hăng hái , không cần nghỉ trưa, đi 
ngay đã rồi về nghỉ.
Đền Kỳ Sầm được xây dựng từ thế kỷ XII thời nhà Lý. Đền nằm ở xã 
Tượng Cần, thuộc tổng Kim Pha, huyện Thạch Lâm ( nay là xóm Bản Ngần, xã
 Vĩnh Quang, huyện Hòa An). Đền  được xây bởi công sức đóng góp của 
người dân vùng Châu Quảng Nguyên ( bao hàm cả Cao Bằng, Lạng Sơn và một phần Hà Giang ngày nay) để thờ nhân vật lịch sử Nùng Trí Cao (1025 – 1055-Còn gọi là Nông Trí Cao), người dân tộc Nùng, liên quan đến sự nghiệp mở mang bờ cõi và dựng nước của vua Lý Thái Tông nước ta, chống lại vua Tống Nhân Tông của Trung Quốc.
 Ấn tượng mạnh từ xa vào là cụm 3 cây đại thụ tạo một vòm lá xanh uy 
nghiêm, vừa linh thiêng vừa gần gũi. Nằm chính giữa là cây gạo đường 
kính trên 1m, thân thẳng như cây cột chống đỡ một cành đa lớn. Tán đa 
tỏa rộng sân đền, rất ít rễ phụ, nhưng hùng vĩ, bề thế. Phía bên kia là 
cây muỗm, đường kính có thể tới gần 2 mét. Mỗi cây một vẻ, nhưng tán lá 
chụm lại, cành giao nhau thành một thể thống nhất. Cùng với một cây muỗm
 phía trước và một 
cây lim hùng vĩ phía sau, tổ hợp cây Đa – Muỗm – Gạo – Lim Đền Kỳ Sầm Cao Bằng ,dễ có tuổi đời trên 500 năm. Đến gần xem, Hồ Uy Liêm phát
 hiện ra ngay biển hiệu “cây di sản Việt nam” của tổ chức VACNE (HỘI BẢO
 VỆ THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM) , một đơn vị một thời nằm dưới 
quyền lãnh đạo của ông (nay là cựu) PCT kiêm Tổng Thư ký LHCHKHKTVN Hồ 
Uy Liêm , người đang đứng cạnh tôi lúc này! Cụ trưởng lão T.B.Phiến và 
tôi vào sâu trong đền, thăm thú , đọc các văn bia câu đối. Có lẽ chỉ có 
hai câu đối trong hậu điện là có vẻ có từ thời xưa : 
cây lim hùng vĩ phía sau, tổ hợp cây Đa – Muỗm – Gạo – Lim Đền Kỳ Sầm Cao Bằng ,dễ có tuổi đời trên 500 năm. Đến gần xem, Hồ Uy Liêm phát
 hiện ra ngay biển hiệu “cây di sản Việt nam” của tổ chức VACNE (HỘI BẢO
 VỆ THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM) , một đơn vị một thời nằm dưới 
quyền lãnh đạo của ông (nay là cựu) PCT kiêm Tổng Thư ký LHCHKHKTVN Hồ 
Uy Liêm , người đang đứng cạnh tôi lúc này! Cụ trưởng lão T.B.Phiến và 
tôi vào sâu trong đền, thăm thú , đọc các văn bia câu đối. Có lẽ chỉ có 
hai câu đối trong hậu điện là có vẻ có từ thời xưa : 
帝業未成人已老 Đế nghiệp vị thành nhân dĩ lão
王封甲錫國同休 Vương phong giáp tích quốc đồng hưu
Các cụ (như Thế Long chẳng hạn) xin dịch giùm, còn tôi tạm dịch 
(bịa) như sau: Nghiệp đế chửa thành (mà) thân đã lão (già), Vua phong 
tột mức (mà) nước (nhà) đều (phải) buông (xuôi). Thật là những lời than 
ai oán cho người anh hùng Họ Nông , một thuở ngang trời dọc đất!
Trên đường vào thành phố, cũng định đi thăm vài dấu tích cuộc chiến 79 ở
 quanh TP Cao Bằng, nhưng người dân nói rằng các nơi liệt sĩ ngã xuống 
nay đều không dễ tìm hoặc có chỗ còn mồ LS thì đã bị xây bịt lối không 
ai vào được. Thôi đành về KS để ngày mai đi dọc biên giới thắp hương 
vậy.

Về KS Phong Lan ở trung tâm TP Cao bằng. Vừa nhận xong phòng , cất đồ đạc , trong nháy mắt hai anh bạn K4 là Nguyễn Bá Tuân , Ngô Chí Hưng
 đã thoắt biến mất dạng, mãi đến tối đi ăn vẫn chưa thấy tăm hơi. Khi đi
 trên xe, mọi người kháo nhau, con gái Cao Bằng vốn là hậu duệ của các 
cung tần mỹ nữ triều Mạc ngày xưa, dáng người thắt đáy lưng ong, da như 
trứng gà bóc , nhất là con gái Nước Hai, chân dài thành thị khó mà đọ 
nổi. Nghi ngờ lắm… Hai anh bạn này biến đi đâu ?  Mời xem tiếp kỳ sau ….
---------------------------------------------
Ảnh trong bài của tác giả Trần Xuân Hoài
Ảnh trong bài của tác giả Trần Xuân Hoài
Xin mời đọc các Comments tại Blog lusonquelam.blogspot.com 


Tôi đã đặt Liên kết với trang mạng xã hội facebook để giới thiệu rộng rãi hơn với người đọc ký sự này của Xuân Hoài .
Trả lờiXóa