Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

LÊN ẢI BẮC - Ký sự của Ts.TRẦN XUÂN HOÀI ( phần 1)

Như đã giới thiệu, cuối tháng 2 vừa rồi, một nhóm cựu học sinh trường Thiếu nhi Việt Nam (1953-1958), gồm 15 cụ tuổi đời đều trên dưới 70, đã tổ chức Hành hương lên chiến trường xưa thuộc 2 tỉnh biên giới phía Bắc là Cao Bằng và Lạng Sơn, nơi 35 về trước, cũng vào tháng 2 đã diễn ra cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của quân và dân ta chống lai quân xâm lược Trung Quốc. Bài ghi chép sau đây của TSKH Trần Xuân Hoài, một cựu học sinh trường "Quế Lâm dục tài học hiệu"phản ánh suy nghĩ chung của tất cả các bạn cùng trang lứa từng sống và học tập 1 thời gian trong sự đùm bọc của nhân dân Trung Hoa thời ấy cũng vừa được giải phóng .

 

Tác giả : TS Trần Xuân Hoài
1. ĐƯỜNG LÊN ẢI BẮC MÙ SƯƠNG
                                  Ghi chép của Xuân Hoài

Mông mênh miền biên giới
Rầu rầu nghẹn tiếc thương

Lom khom nấm mộ cỏ
Rõi rõi theo dọc đường

                       (Thơ Song Thu)
Ngồi trước màn hình , nhiều cảm xúc quá , mãi mà chưa biết bắt đầu viết về chuyến hành hương như thế nào thì nhận được email của Song Thu : “… anh vào Blog em đọc thơ thẩn của em nhé!”. Bài thơ dài man mác, các bạn vào “Hoa sim tím” mà đọc nguyên văn. Với tôi , chỉ hai mươi chữ này thôi , đã đủ lay động lòng người, đã nói giùm cả con đường biên giới mông mênh, chứ không phải mênh mông đâu, mênh mông là trời biển kia…còn đây là con đường biên giới len lỏi giũa những đèo cao,vực sâu , khe núi hẹp , lên rồi lại xuống mông mênh, bồng bềnh trên mây ngàn , dập dình theo bánh xe lăn , chênh vênh như lòng người hành hương lên ải bắc mù sương. Ai đó lại hỏi , sao lại nói là lên ải Bắc. Đúng quá bạn ơi. Đích đến hôm nay là Cao Bằng. Thành lũy ở Cao Bằng đã từng  là hoàng cung của một quốc gia. Nhiều giả thuyết cho rằng Cao Bình xưa đã từng là cố đô của Thục Phán nước Âu Việt- về sau hợp nhất với Lạc Việt của Vua Hùng ,thành An Dương Vương, vua nước Âu Lạc, thiên đô về Cổ loa. Đến đời nhà Lý năm 1038 Nông Tồn Phúc cát cứ vùng này, xưng đế hiệu, đặt tên nước là Trường Sinh. Năm sau, vua Lý Thái Tông thân chinh dẹp yên, nhưng đến năm 1041 con Nông Tồn Phúc là Nông Trí Cao lại dấy binh, đặt tên nước là Đại Lịch, vua Lý Thái Tông sai tướng lên đánh bắt được đem về Thăng Long, rồi dùng chính sách chiêu an tha cho về phong làm Quảng Nguyên mục, sau gia phong tước Thái Bảo. Năm 1048 Nông Trí Cao xưng là Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam, đem quân sang đánh nước Tàu, chiếm 8 châu ở Quảng Đông, Quảng Tây, nhà Tống phải cử tướng Địch Thanh thảo phạt. Bị thất bại, Nông Trí Cao chạy trốn sang nước Đại Lý và bị bắt giết. Hơn bốn trăm năm sau, Nhà Mạc bị nhà Lê đánh đuổi cũng rút lên đây, nhà Mạc lập cung điện tại Gò Long trong thành Nà Lữ của Nông Trí Cao. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: "Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế. …Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng" (theo Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294). Đại Việt và vùng Cao Bằng bất đắc dĩ đã là hai quốc gia, nên quân lính Việt lên Cao bằng là lên nơi biên ải, có câu ca não nuột khi anh lính chia tay vợ con: Con cò lặn lội bờ sông/Gánh gạo đưa  chồng tiếng khóc nỉ non/Nàng về nuôi cái cùng con/Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Đoàn 15 cựu học sinh LSQL từ K3 đến K6 hành hương biên giới trực chỉ Cao Bằng theo cao tốc Hà nội –Thái Nguyên, chưa đầy 2 tiếng đồng hồ , đã đến ngã ba Bờ Đậu, nhanh quá khiến cho Cụ Khoa Phi , người 35 năm 6 tháng đã lăn lộn dâng cả cuộc đời trai trẻ cho Gang thép Thái Nguyên chưa kịp chỉ dẫn hết các địa danh lịch sử thủ đô kháng chiến vừa đi qua , những bi hài của Khu Gang thép đầu tiên lớn nhất VN với sản lượng đâu như chỉ 0,2 triệu tấn/năm và cuộc đời một kỹ sư Gang Thép. Bánh chưng Bờ Đậu không biết vì sao lại nổi danh như cồn , nay mới được dịp kiểm chứng. Quả thực danh bất hư truyền, dù vừa no nê bánh chưng tết Giáp Ngọ ,thế mà chiếc bánh chưng gọn gàng bằng ¼ bánh chưng tết , thơm lừng đã hấp dẫn tôi vô kể, khiến không thể không thưởng thức. Ngon hơn Hà nội là cái chắc! Các chị đã nhanh chóng gói ghém, thu gom mấy cái bánh chưng để dự phòng cho chuyến đi, là một “bằng chứng khách quan”. Nhưng cũng phải nói thêm là bánh giò Bờ Đậu thì không thể sánh với bánh giò Hà nội nóng hổi , nhất là thưởng thức vào những đêm đông lạnh giá !
Thái Nguyên-Bắc Kạn đường số 3 hẹp lại, không còn cao tốc nữa, chạy dài theo ký ức. Đa phần  trong chúng ta 60 năm trước đều đã ở đây, qua đây , hoặc để lên Cao bằng qua biên giới sang Tâm Hư KHX rồi sau lên Quế Lâm , hoặc để sang Lạng sơn qua Bằng Tường. Ít nhất thì ai cũng đã thuộc lòng những địa danh Than Phấn Mễ, Thiếc Cao Bằng/Phố phường như nấm như măng giưa trời (Việt Bắc). Lần lượt qua những địa danh Quán triều, Phấn mễ, Phú Lương, đến Cầu Chợ Mới là biên giới Thái Nguyên –Bắc Kạn. Anh bạn Nguyễn Bá Tuân (K4) từ Tây ninh ra , đã cẩn thận ghi lại một CD những bài ca TQ thân quen thời Dục Tài Học Hiệu. Thế là những giai điệu ”Mặt trời không lặn trên thảo nguyên” hay “xung chiu chiu , xi oang oảng…” của bài Kháng Mỹ Viện Triều vang lên trên xe, khiến hồi ức trở lại 60 năm trước , vô tư và trong sáng biết bao, làm rút ngắn đường dài. Phút chốc 80 km Thái Nguyên-Bắc Kạn đã hết, cả đoàn dừng lại ghé thăm thị trấn, à quên, TP miền núi mà ngày xưa nhiều kẻ trong hội ta từng trú ngụ hoặc đi qua. Đây cũng là nơi mà sáng 7-10-1947 Pháp nhảy dù xuống để mưu tóm gọn Chính phủ Kháng chiến. Chuyện kể rằng :Một tên đội tây lai bỗng nhào vào đám đông dân mắc nạn, vỗ vai một ông cụ có bộ râu thưa, trông rất chững chạc, rồi ngẩng mặt lên trời cười hô hố:
-    Oh! Monsieur le President! (Ồ! Ngài Chủ tịch!)
Ngày 8-10-1947, ngay sau khi được tin ‘“đã bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh”, Bô-la, Cao ủy Pháp ở Đông Dương, lập tức từ Sài Gòn bay ra Hà Nội. Vừa bước xuống sân bay Gia Lâm, không để y nói lời chúc tụng binh sĩ, Xa-lăng đã báo cáo:
-    Chúng tôi... chúng ta đã bị lầm.
Người mà quân Pháp nhầm tưởng là Chủ tịch Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Văn Tố, lúc đó là Trưởng ban thường trực Quốc hội (khóa 1). Khi biết không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân Pháp đã bắn chết cụ Nguyễn Văn Tố. Cụ là nhà lãnh đạo cao nhất của Nhà nước ta hy sinh trong chiến dịch Thu Đông năm 1947.
Vũ Thu Giang ( Song Thu) em bé bên trái và bây giờ
Xe lại lăn bánh Bắc Kạn-Cao Bằng. Ngày ấy hai bên đường là rừng núi mịt mù, giờ đây, dừng xe bên cầu Nà Cù trên quốc lộ 3, ngã ba có đường rẽ vào xã Nguyên Phúc, rừng đã lùi xa, nước suối trơ vách đá, dấu tích một thời đạn bom chỉ còn trong ký ức. Ngày  30/3/1951, Bác Hồ ghé thăm phân đội TNXP 312 bám trụ bảo vệ cầu Nà Cù , và tặng bài thơ nổi tiếng đã từng được phổ nhạc làm Đoàn ca“Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí cũng làm nên". Từ cầu Nà Cù đến trụ sở xã Cẩm Giàng độ 300m gần quốc lộ 3. Địa điểm di tích Nà Tu, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh làm thơ tặng TNXP cách trụ sở xã khoảng 60m. Di tích quốc gia Nà Tu này khá đẹp, nhưng…lạ là quanh năm cửa đóng then cài , không ai được vào thăm. Chúng tôi đành đứng ngoài chụp mấy kiểu ảnh , và lại lên xe đi tiếp. Ngậm ngùi không biết các bậc tiền bối xả thân 60 năm trước nghĩ gì nếu lớp hậu sinh đầy quyền lực ngày nay ngầm chế  lại thành câu “chỉ sợ tiền không nhiều, đào núi và lấp biển , không làm được thì thuê”. Bất chợt lại nhớ đến lời ông Tổng cục trưởng Cục Khoáng sản, đại ý rằng: khoảng 60% doanh nghiệp phía sau lưng họ đều là  doanh nhân Trung Quốc để khai thác khoáng sản, chưa nói đến nhiều doanh nghiệp tỉnh cấp cho người Trung Quốc. Rồi cũng thấy chạnh lòng nhớ lại cảnh Boxit Nhân Cơ mấy tháng trước tôi vừa tới thăm. Sự thật đâu chỉ có Nhân cơ, có“ tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất…của Việt Nam đều do Trung Quốc đảm nhiệm.” Đúng là “không làm được thì thuê” TQ làm bằng đồng tiền cóp nhặt của dân đen, để còn…, Thôi không được suy nghĩ miên man nữa XH Chú ý kìa, cô em út Thu Giang (K3) , nhân vật VIP nổi danh ngày xưa năm 1951 chụp bức ảnh nổi tiếng với Bác Hồ, đâu đây ở đoạn này, đang bắt nhịp hát các bài ca yêu thích một thời của LSQL. Thu Giang đã cẩn thận in cho mỗi người môt tập lời ca các bài hát xưa , để nay cùng hát vang đường, một bên là vách núi, một bên là nhánh Sông Cầu, thật là hợp với giọng ca chênh vênh của tuổi thất thập. Hát xong , các cá nhân bắt đầu trổ tài. Đầu tiên là anh Nguyễn Hồng Nhật (K6, lớp anh cả của LSQL) đọc thơ vui về Hằng Nga-Chú Cuội làm mọi người cười lăn cười bò. Chắc là Calathau cài gián điệp hay sao mà lại nghe được, bèn đăng lên đình làng ngay chuyện Hằng Nga tát Cuội khờ , vì tội không biết tiến xa một gang xuống dưới rốn nàng…Năm chúng tôi 10,11 tuổi, anh Hồng Nhật vốn là Trung Đội phó ,còn Khoa Phi là tiểu đội trưởng dưới quyền ,chỉ huy bọn lính trơn Hồ Uy Liêm , Nhật Lệ…và tôi, trong Đoàn Thiếu sinh LK4 (Đoàn 10) , hành quân ra Việt Bắc năm 1953. Xe đã qua Phủ thông , một địa danh quen thuộc với thiếu sinh quân chúng ta. Ngoài xe , trời bắt đầu mù sương che lấp dần những ngọn núi như răng cưa của các dãy núi thuộc vòng cung Ngân sơn. Trưởng lão của Làng, Cụ Trịnh Bá Phiến , con rể QLLS năm nay đã bát tuần, tóc bạc như cước, mà cường tráng, nhanh nhẹn hơn nhiều cụ mới lục tuần, trình làng những bài thơ vui , những giai thoại văn chương của các ông Đồ Nghệ. Chuyện thơ, chuyên văn hấp dẫn quá , cho đến lúc một ai đó trong đoàn bỗng nhắc, đến chỗ rẽ đi Na rì rồi, có ai biết có gì đặc biệt đây không. Mọi người ngớ ra, mãi mới có người lên tiếng, là quê hương của kỹ sư lâm nghiệp một thời tiếp chiếu nhận 16 chữ vàng của thiên triều ban, để ký và ra sức thực hiện cho bằng được Boxit Tây Nguyên…và nhiều chuyện khác nữa . À, thì ra là vậy. Thế thì cũng nên ghi vào ký sự hành trình này cho con cháu đời sau phán xét. Đường càng ngày càng lên cao, mặt đường tốt ,nhưng quanh co, lại thêm xe Container chạy dồn dập làm cho tốc độ bị châm rất nhiều. Hỏi ra mới biết , dạo này TQ đổi ý thế nào đó mà biên mậu chuyển trọng điểm sang cửa khẩu Tà Lùng Cao Bằng, cho nên đường này giờ tấp nập xe hàng. Biết chắc rằng không thể đến Cao Bằng trước buổi trưa, cả đoàn bỏ phiếu nhất trí nghỉ lại ăn trưa ở đỉnh đèo Gió , cao hơn ngàn mét so với mặt biển. Gió đâu không biết , nhưng mây thì đầy. Mây chui cả vào trong xe , trong nhà . Hở ra là chui vào. Sống trong mây mù ,thì nước không phải từ trên trời xuống, mà là bay ngang, thậm chí bay từ dưới lên, chỉ khổ cho các cô nàng mặc váy. Tuy vậy , bữa cơm trưa trong mây thì ngon đáo để, ai cũng ăn uống hăng hái như trai trẻ và cũng bia rượu (mang từ nhà đi) rôm rả. Vui quá, lại nghĩ tiếc cho những cụ ngại ngần mà không dám đi xa , lúc còn đi được. Xuống đèo mới năm phút thì đã khác hẳn, mây đã bớt và không khí đã ấm dần, đến huyện lỵ Ngân Sơn thì gần như bình thường, ấm hơn dù còn khá cao so với biển. Đã gần 3 giờ chiều rồi, còn 50 km nữa mới đến Cao Bằng. Phải hội ý gấp để quyết định đổi lịch trình. Cả đoàn quyết định đi thẳng đến thăm duy nhất một danh thắng và di tich văn hóa quốc gia là đền Kỳ Sầm, thờ Nùng Trí Cao , xong mới vào Thành Phố Cao Bằng. Các điểm dự tính khác không còn kịp thăm trước khi trời tối. Nếu không bị chậm mất hơn 3 giờ so với kế hoach , do bị mây mù và xe siêu trường siêu trọng chẹn đường thì các Cụ đã có thể ăn trưa Cao Bằng, vào KS nghỉ ngơi, 4 giờ chiều mới đi thăm thú. Chỉ lo các cụ mêt, thế mà tất cả ai cũng hăng hái , không cần nghỉ trưa, đi ngay đã rồi về nghỉ.
Đền Kỳ Sầm được xây dựng từ thế kỷ XII thời nhà Lý. Đền nằm ở xã Tượng Cần, thuộc tổng Kim Pha, huyện Thạch Lâm ( nay là xóm Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hòa An). Đền  được xây bởi công sức đóng góp của người dân vùng Châu Quảng Nguyên ( bao hàm cả Cao Bằng, Lạng Sơn và một phần Hà Giang ngày nay) để thờ nhân vật lịch sử Nùng Trí Cao (1025 – 1055-Còn gọi là Nông Trí Cao), người dân tộc Nùng, liên quan đến sự nghiệp mở mang bờ cõi và dựng nước của vua Lý Thái Tông nước ta, chống lại vua Tống Nhân Tông của Trung Quốc. Ấn tượng mạnh từ xa vào là cụm 3 cây đại thụ tạo một vòm lá xanh uy nghiêm, vừa linh thiêng vừa gần gũi. Nằm chính giữa là cây gạo đường kính trên 1m, thân thẳng như cây cột chống đỡ một cành đa lớn. Tán đa tỏa rộng sân đền, rất ít rễ phụ, nhưng hùng vĩ, bề thế. Phía bên kia là cây muỗm, đường kính có thể tới gần 2 mét. Mỗi cây một vẻ, nhưng tán lá chụm lại, cành giao nhau thành một thể thống nhất. Cùng với một cây muỗm phía trước và một cây lim hùng vĩ phía sau, tổ hợp cây Đa – Muỗm – Gạo – Lim Đền Kỳ Sầm Cao Bằng ,dễ có tuổi đời trên 500 năm. Đến gần xem, Hồ Uy Liêm phát hiện ra ngay biển hiệu “cây di sản Việt nam” của tổ chức VACNE (HỘI BẢO VỆ THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM) , một đơn vị một thời nằm dưới quyền lãnh đạo của ông (nay là cựu) PCT kiêm Tổng Thư ký LHCHKHKTVN Hồ Uy Liêm , người đang đứng cạnh tôi lúc này! Cụ trưởng lão T.B.Phiến và tôi vào sâu trong đền, thăm thú , đọc các văn bia câu đối. Có lẽ chỉ có hai câu đối trong hậu điện là có vẻ có từ thời xưa :
帝業未成人已老 Đế nghiệp vị thành nhân dĩ lão
王封甲錫國同休 Vương phong giáp tích quốc đồng hưu
Các cụ (như Thế Long chẳng hạn) xin dịch giùm, còn tôi tạm dịch (bịa) như sau: Nghiệp đế chửa thành (mà) thân đã lão (già), Vua phong tột mức (mà) nước (nhà) đều (phải) buông (xuôi). Thật là những lời than ai oán cho người anh hùng Họ Nông , một thuở ngang trời dọc đất!
Trên đường vào thành phố, cũng định đi thăm vài dấu tích cuộc chiến 79 ở quanh TP Cao Bằng, nhưng người dân nói rằng các nơi liệt sĩ ngã xuống nay đều không dễ tìm hoặc có chỗ còn mồ LS thì đã bị xây bịt lối không ai vào được. Thôi đành về KS để ngày mai đi dọc biên giới thắp hương vậy.
Về KS Phong Lan ở trung tâm TP Cao bằng. Vừa nhận xong phòng , cất đồ đạc , trong nháy mắt hai anh bạn K4 là Nguyễn Bá Tuân , Ngô Chí Hưng đã thoắt biến mất dạng, mãi đến tối đi ăn vẫn chưa thấy tăm hơi. Khi đi trên xe, mọi người kháo nhau, con gái Cao Bằng vốn là hậu duệ của các cung tần mỹ nữ triều Mạc ngày xưa, dáng người thắt đáy lưng ong, da như trứng gà bóc , nhất là con gái Nước Hai, chân dài thành thị khó mà đọ nổi. Nghi ngờ lắm… Hai anh bạn này biến đi đâu ?  Mời xem tiếp kỳ sau ….
---------------------------------------------
Ảnh trong bài của tác giả Trần Xuân Hoài
Xin mời đọc các Comments tại Blog lusonquelam.blogspot.com

1 nhận xét:

  1. Tôi đã đặt Liên kết với trang mạng xã hội facebook để giới thiệu rộng rãi hơn với người đọc ký sự này của Xuân Hoài .

    Trả lờiXóa