Trong làng Culo chúng ta, phải nói thật, tính là Hà Nội gốc không nhiều. Nhưng yêu Hà Nội, nhiều kỷ niệm với Hà Nội và còn tự hào về Hà Nội thì chắc là nhiều lắm . Nhưng không phải vì tất cả điều đó mà tình cảm có thể lấn át lý trí để mỗi người, đôi lúc chợt tỉnh, tự hỏi : sau 60 năm về tay GCCN và NDLĐ, Hà Nội , một thời là "thủ đô của xứ Đông Dương" thuộc Pháp, nay đã vươn lên đứng ở thứ hạng nào trong hàng ngũ các thủ đô các nước thuộc Châu Á, thậm chí chỉ so với các nước láng giềng ĐNÁ ?
Từ Hà Nội, tôi lại nghĩ về Sài Gòn, cũng một thời Hòn ngọc viễn đông, thủ đô của một quốc gia được nhiều nước trên thế giới công nhận hơn nước VNDCCH .
Chế độ mới ( sau GPMN) đã xóa sạch dấu vết ( cả biểu tượng lẫn cơ sở hạ tầng ) một thủ đô ! Nhân dịp kỷ niệm ngày 10/10, người ta đã không tiếc một tính từ đẹp đẽ nào để dành cho thủ dô Hà Nội. Cả mấy trăm tỷ đồng đã làm nên "bữa tiệc" cờ đèn kèn trống, bắn pháo hoa ...Nhưng hãy tỉnh táo mà trả lời câu hỏi : sau 60 năm ấy Hà Nội của chúng ta đã PHÁT được đến đâu ???
Xin đọc bài dưới đây của nhà thơ Vương Trí Nhàn để tham khảo.
Những thay đổi đã đến với Hà Nội từ sau 1954: Tính nghiệp dư trong quản lý.
Vương Trí Nhàn/ Blog Vương Trí Nhàn
Sau Cải cách ruộng đất, nhiều nông dân được chia quả thực, có
khi là cả một phần những cơ ngơi nhà cửa và những đồng đất bờ xôi ruộng
mật của địa chủ.
Nhưng nhiều người trong họ, nhất là những người được chia đậm, lại là những
người chưa có của cải bao giờ, họ không biết làm chủ.
Không những dốt nát kém cỏi, không biết làm cho của cải sinh sôi nẩy nở, mà có
khi một số người này còn rơi vào cảnh rượu chè cờ bạc, đến mức bán cả nhà cửa
và đẩy vợ con vào cảnh nghèo khó như cũ.
Nếu sự phá sản nói trên không phải là phổ biến đi chăng nữa (?), thì có điều
chắc là những người này không sử dụng nhà cửa ruộng đồng mà họ được chia một
cách hiệu quả như những người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được những tài
sản ấy.
Với chúng ta, những người chủ của Hà Nội sau 10-10-54, cũng vậy.
Trong đoàn quân tiếp quản thủ đô 60 năm trước, có nhiều chiến sĩ là
con em của Hà Nội. Từ 10-10-54, người chủ tịch Ủy ban hành chính cũ
của Hà Nội 1945-1946 là Trần Duy Hưng lại quay về lãnh chức vụ cũ.
Thế nhưng, đó chỉ là xét về bề ngoài. Trung đoàn thủ đô không còn mấy người là
dân cũ Hà Nội, mà có còn chăng nữa, họ đã bị nông dân hóa.
Với bác sĩ Trần Duy Hưng cũng vậy. Sự tồn tại của ông chỉ là trên danh
nghĩa, bởi toàn bộ bộ máy dưới quyền ông và nhất là cái tinh
thần chỉ đạo hoạt động của bộ máy đã hoàn toàn thay đổi, nếu không
nói là lật ngược lại.
Từ các ghi nhận của
Ph. Papin và Nguyễn Huy Tưởng
Dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long, nhiều tài liệu nghiên cứu về Hà Nội của
người nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt. Chính đọc những cuốn sách ấy người
ta lại hiểu về Hà Nội hơn tất cả các sách vở mà các nhà nghiên cứu Việt Nam đã
viết.
Lịch sử Hà Nội của Philippe Papin là một trường
hợp như thế. Mô tả lại việc quản lý đời sống Hà Nội sau 10-10-54, nhà
nghiên cứu này viết:
Thành phố giờ
đây được điều hành theo tư tưởng của những cán bộ lãnh đạo từ chiến khu
trở về.
Họ không được người
Hà Nội nể phục, vì lẽ người dân ở đây quá hiểu về con đường đi tới cái vai quản
lý của các quan chức này.
Họ vốn chỉ là
những nông dân thô lỗ được thăng quan tiến chức quá nhanh, những quan chức nhỏ
nóng tính dốt nát song lại ưa sử dụng những ngôn từ to tát, những khái
niệm mác xít chưa thuần thục
(Philippe Papin Lịch sử Hà Nội Mạc Thu Hương dịch từ
tiếng Pháp, nhà xuất bản Mỹ thuật 2010, trang 293-294 )
Nguyễn Huy Tưởng vốn là một nhà văn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội,
sau 10-1954 lại trở về với tư cách chủ nhân của cái thành phố thân
yêu.
Ngay từ 1956- 57, trong nhật ký của mình, tác giả Sống mãi với Thủ đô
đã ghi lại những hiện tượng báo trước một tình trạng băng hoại lâu dài. Đây
cũng là những bằng chứng xác nhận cho nhận xét tổng quát nói trên của Ph.Papin.
--(21-6-1956) Mậu
dịch tham ô lãng phí. Sữa để với muối, hỏng hết. Bơ để mốc. Máy gửi đi thiếu
các bộ phận. Peniciline hỏng hàng loạt, có đến triệu viên. ( Nhật ký
Nguyễn Huy Tưởng bản của nhà Thanh Niên 2006, ba tập,
tập 3, Tr 106 )
-- (11-9-1956 ) Đại
biểu khu phố Hà Nội là một con sen. Đi vận động các nhà làm sao. Than ôi! Thành
phần chủ nghĩa, cứ nhắm mắt mà làm.
Tư sản làm tốt không dùng.
Sợ đề cao tư sản (sđd Tr 138 )
---
(13-4-1957) Cái láo xược của cơ quan ưu điện Bờ Hồ. Chẳng coi trọng gì quần
chúng cả. Guichet Bưu điện máy bay sáng 11-4 đề biển Vì bận học nên
nghỉ từ 7 giờ đến 9 giờ. Và sáng hôm nay , khi khách đã đứng đầy
ngoài cửa, bọn công nhân viên vẫn ngồi thảo luận, mặc kệ khách. Một
người thấy chướng quá, bảo, họ vẫn cứ ngồi thảo luận. (như trên tr 241)
Tính nghiệp dư thành xu thế kéo
dài
Trong các bộ sử Việt nam của các tác giả phương Tây viêt về Việt Nam tôi đọc
được một nhận xét tổng quát về Nguyễn Ánh Gia Long thế kỷ XIX: ông là người
sinh ra để chiếm lại đất nước, là người chiến thắng sau những cuộc nội chiến,--
chứ không phải người sinh ra để cai trị đất nước.
Gia Long là nhân vật lịch sử quan trọng bị nền sử học chính thống ở miền Bắc
sau 1945 bôi nhọ một cách thậm tệ đến mức không thể xấu hơn.
Thế nhưng qua cách miêu tả như trên, hóa ra -- trong cái sứ mạng chủ yếu
làm nên tính chính đáng của quyền lực trong lịch sử -- giữa ông và chúng ta hôm
nay giống nhau như hai giọt nước.
Từ những quan sát của Nguyễn Huy Tưởng, tôi thử bình luận thêm về
cách quản lý của chúng ta đối với Hà Nội những năm ấy.
-- Có của trong tay cũng không biết giữ. Trao cho những
người chỉ quen trông nom và làm chủ mấy cái chợ quê "dăm miếng cau khô mấy
lọ phẩm hồng"( thơ Hoàng Cầm) ra quản lý một thành phố hiện đại.
-- Mang cách sống cách làm việc của cuộc chiến tranh nhân
dân dầm dề chậm chạp vào việc quản lý cuộc sống năng động trong hòa bình. Phá
vỡ nhịp điệu bình thường của một thành phố hiện đại.
-- Không quan niệm rằng quản lý là một công việc cần phải
học hỏi, và phải có trình độ như thế nào đó mới làm nổi. Các loại công việc
liên quan đến đời sống hiện đại muôn vàn phức tạp bị đặt vào
tay những người không có hiểu biết gì về xã hội.
Cần nói thêm rằng cái chuyện nghiệp dư chúng ta nói ở đây tự nhiên hoành
hành và sống khá dai dẳng đến vậy bởi lẽ:
-- nó là cái tinh
thần chi phối từ đào tạo con người, sử dụng nhân tài, tổ chức guồng máy nói
chung.
-- nó cũng là nguyên
tắc có mặt trên tất cả mọi phương diện đời sống, cả trong sản xuất, kinh doanh
lẫn trong sáng tác văn hóa nghệ thuật.
-- nó được áp dụng ở
tất cả các địa phương miền Bắc lúc ấy và Hà Nội không được coi là ngoại lệ.
Sở dĩ một người như Nguyễn Huy Tưởng không chịu được vì nó xa lạ với tinh thần
cuộc sống xã hội hiện đại mà ông tiếp nhận được từ nền văn hóa phương Tây.
Nhưng rồi cũng như mọi người dân Hà Nội khác ông phải chấp nhận.
Từ 1960 ông đã qua đời, nhưng nếu sống thêm ông chỉ chứng kiến sự thắng thế của
những nguyên tắc quản lý cổ lỗ, xa lạ với tinh thần hiện đại, khiến cho Hà Nội
có nhiều nét trở lại như một thành phố nhốn nháo chẳng khác cái kinh thành Đông
Đô hồi vua Lê chúa Trịnh thế kỷ XVIII mà chúng ta biết được qua Hoàng Lê
nhất thống chí.
Càng ngày càng sáng tỏ VĂN HÓA (TRÍ THỨC) là CỘI NGUỒN của nền VĂN MINH xã hội.
Trả lờiXóaĐất nước chúng ta sau CM lấy giai cấp CÔNG NÔNG lên lãnh đạo, khi giai cấp công nhân chưa có xưởng máy (chưa hình thành), khi giai cấp nông dân chưa có ruộng đất, mù chữ. Còn trí thức thi quá ít ỏi và không được coi trọng. Sự phát triển đi lên của đất nước ta Ì ẠCH là điều tất yếu.
Chúng ta- phải khiêm tốn tự nhìn nhận cũng tuộc hàng ngủ trí thức, rất NGOAN NGOÃN, NGU LÂU, đến bây giờ chúng ta mới vỡ lẻ ra nhiều v/đ.
Không biết ai đã có một cách hình dung rất đúng với lớp cán bộ quản lý của HN nói riêng và đất nước ta nói chung thời ấy: Đó là một lớp công chức hút thuốc lào.
Trả lờiXóaQuản lý Hà Nội-Một mớ bòng bong khó hiểu...
Trả lờiXóaTổng kết lại ,chính quyền công nông :
Trả lờiXóa-cho bần cố nông có ruộng và nắm quyền để rồi không biết làm ăn,,sau đó lại bị nhà nước thu lại ruộng đất ,nhà nước và nông dân thi nhau phá tan nền sản xuất nông nghiệp -cả nước đói !
-Ở thành thị ,giai cấp công nhân dưới sự chỉ đạo củamấy bố nguyên là nông dân chiếm cứ các cơ sở công nghiệp để rồi sản xuất đình trệ ,cán bộ lâu năm mới được phân phối cái áo may ô .......
-Về văn hóa ,lối sống thủ đô ngàn năm văn vật tràn lan bọn đầu gấu ,lừa đảo ,bằng cấp giả ......
Thế mà thủ đô vẫn tự hào về thành tích của mình .Bây giờ học đòi bọn tư bản nước ngoài ,bộ mặt nhìn thấy sáng sủa hơn nhưng nội tình thì nát bét với tệ mua quan bán chức ,tham ô ,lộng quyền ,coi dân như rác ...Tôi yêu thủ đô nhưng cũng buồn cho thủ đô rộng mênh mang mà những người cầm cân nẩy mực lại HẸP trí tuệ .