Vào khoảng thế kỷ 16, có một số người Việt di cư lên phía bắc lập 
nghiệp ở vùng Trường Bình – Bạch Long. Vùng đất đó bấy giờ thuộc Đại 
Việt nhưng theo Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh 
thì Trường Bình bị sáp nhập vào nước Trung Hoa. Người Kinh tại đây là 
một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Người Kinh ở Trung Quốc mặc áo dài truyền thống
Thời gian trôi qua, nhóm người Việt này đã bị ảnh hưởng văn hóa Trung
 Hoa. Tuy vậy họ vẫn nói tiếng Việt. Họ sinh sống chủ yếu trên 3 đảo 
(Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu), gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo, thuộc thị xã
 Đông Hưng, khu tự trị người Choang Quảng Tây (cách cửa khẩu Móng Cái 
của Việt Nam chừng 25 km) nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với 
tiếng Hoa kèm với nhiều từ cổ của tiếng Việt.
Họ được coi là cộng đồng người Kinh chủ yếu và còn mang nhiều bản sắc
 văn hóa Việt Nam nhất tại Trung Quốc với tư cách là một trong 56 dân 
tộc của đất nước này (không bao gồm cộng đồng người Việt mang quốc tịch 
Việt Nam hiện đang học tập và làm việc tại Trung Quốc)
Tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi “Kinh tộc 
Tam Đảo”, có nghĩa là “Ba hòn đảo của người Kinh”, hiện vẫn được dùng 
tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa 
bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên (nay đã trở thành
 bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương 
đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền).

Vị trí Tam Đảo mà người Kinh sinh sống
Với lịch sử định cư trải qua hơn 500 năm, hầu hết cư dân người Kinh ở
 khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm) cũng như một vài nơi khác ở
 Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều có chung nguồn gốc là 
người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam), còn lại số ít người Kinh trong đó có
 nguồn gốc từ một vài địa phương ven biển của Việt Nam di cư đến. Theo 
điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại
 khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người trong tổng số trên dưới 
22.000 người dân tộc Kinh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, một con số được
 coi là rất khiêm tốn nếu so với nhiều dân tộc khác đang cùng sinh sống 
trên đất nước đông dân nhất thế giới này.

Người Kinh tại Trung Quốc
Dòng họ Tô là một dòng họ lớn và được xem là có ảnh hưởng nhất trong 
cộng đồng các dòng họ người dân tộc Kinh tại Quảng Tây nói riêng và 
Trung Quốc nói chung. Họ Tô là một trong 12 dòng họ người Kinh hay còn 
gọi là người Việt gốc Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam). Nhiều người trong họ
 Tô đã có công nghiên cứu, bảo tồn và quảng bá các giá trị đặc sắc của 
văn hóa truyền thống của người Kinh đồng thời cũng là cội nguồn của văn 
hóa Việt Nam đến nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn dù cho dân 
số của người Kinh tại Trung Quốc là rất khiêm tốn nếu so với nhiều cộng 
đồng dân tộc khác của đất nước này. Trải qua hơn 500 năm định cư trên 
đất Trung Quốc, hiện dòng họ Tô cũng như một số dòng họ người Kinh khác 
không chỉ tập trung sinh sống tại khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn
 Tâm) mà đã phân tán ra nhiều địa bàn khác quanh khu Phòng Thành Cảng 
của tỉnh Quảng Tây.

Người Kinh đánh trống trong một lễ hội
Ngôn ngữ
Người Kinh tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay tiếng Việt và sử dụng phổ 
biến chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương là tiếng Quảng 
Đông và sử dụng Hán tự. Tuy nhiên, về ngữ pháp, người Kinh không nói 
ngược như dân Hán mà vẫn nói xuôi theo lối giao tiếp của người Việt.
Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ 
truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút
 phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, 
phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích 
đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và 
vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc 
áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những 
áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo 
lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù 
còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ 
nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông
 thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.
Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do 
cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm 
lấy nhau.

Dân tộc Kinh tại Trung Quốc
Ẩm thực
Về ẩm thực, người Kinh ở Tam Đảo ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn 
khoai sắn, khoai sọ, thích ăn các loài hải sản như cá, tôm, cua. Đặc 
biệt, họ làm nước mắm từ cá biển để chấm và nêm thức ăn. Những món ăn ưa
 thích của họ là bánh đa làm bằng bột gạo có rắc vừng nướng trên than 
hồng mà sách Trung Quốc gọi là phong xuy hỉ (bánh phồng do gió thổi) và 
bún riêu, bún ốc sách Hán tự ghi là hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh 
cua và ốc.
Tôn giáo chủ yếu là Phật giáo đại thừa và Đạo giáo. Ngoài ra họ còn duy trì tục cúng thần linh và tổ tiên.

Trong một lễ hội
Họ ưa thích lối hát đối đáp giao duyên (antiphonal songs) nghe du 
dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ở miền 
Bắc Việt Nam bây giờ. Lối hát đúm hát đối này thường được tổ chức vào 
ngày Tết, ngày Hội. Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị 
(two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và đàn bầu (độc huyền cầm) 
là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Họ có một kho tàng văn 
học dân gian truyền khẩu phong phú với ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích… 
Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều
 màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.

Y phục và nhạc cụ của người Kinh tại Quảng Tây
Đời sống kinh tế
Người Kinh tại khu vực Tam đảo hoạt động chủ yếu trong các ngành như 
ngư nghiệp (đánh bắt, nuôi trồng hải sản, nông nghiệp, dịch vụ du lịch. 
Ngoài ra, một bộ phận dân cư hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ.
Trong 700 loại cá đánh ở đây thì hơn 200 loại có giá trị kinh tế cao 
và thu hoạch nhiều. Ngọc trai, cá ngựa và sea otters sinh sản lắm ở đây 
và thường quí về phương diện dược liệu. Nước biển của vịnh Bắc Bộ tốt 
cho sự làm muối. Mùa màng chính ở đây là gạo, khoai lang, đậu phọng, 
khoai sọ, và kê. Những loại trái cây bán nhiệt đới như đu đủ, chuối, 
nhãn thì rất nhiều. Những khoáng sản dưới đất gồm sắt, monazite, 
titanium, magnetite và silica. Những giải rộng của rừng tràm mọc trên 
vùng nước lợ là một nguồn lợi phong phú về chất tannin dùng làm nguyên 
liệu tất yếu cho kỹ nghệ thuộc da.
Người Việt Nam cho dù ở đâu vẫn là người Việt Nam!
Nguyễn Anh (tổng hợp)
------------------------------------------------------------
Theo Lịch sử Việt Nam  (lichsuvietnam.com)
Có thể xem Clip người Kinh ở TQ biểu diễn văn nghệ Tại đây
Có thể xem Clip người Kinh ở TQ biểu diễn văn nghệ Tại đây
Nếu nói người gốc Việt thì còn phải kể đến người Tày-Nùng. Ở bắc Việt nam có hơn một triệu, phía Trung Quốc có gần 30 triệu. Họ chính là người Choang (Tráng). Tổng Nông nhà ta cũng nói cùng thứ tiếng với ba mươi triệu người này !
Trả lờiXóa7 cô gai người kinh mặc áo dài màu vàng và tím hoa cà đẹp quá !
Trả lờiXóa