Nguyễn Hồng Nhật. (K6)
ĐOÀN 10 XƯA VÀ NAY
Tác giả Hồng Nhật |
Đoàn 10 là Đoàn thiếu niên
nhi đồng con em cán bộ các tỉnh Bình Trị Thiên Hà tĩnh, Nghệ An tuổi từ 7-8 đến
15-16 được cho sang Lư Sơn Trung Quốc học tập để chuẩn bị hoà bình trở về xây
dựng đất nước và cũng để cha mẹ các em yên tâm phục vụ kháng chiến. Đoàn tập
kết tại Chợ Rộ, Thanh Chương NA, nơi đây là trụ sở của UBKCHC khu IV, cũng là
nơi nổi tiếng với khoai lang. Anh Huỳnh Ngọc Lý là trưởng đoàn và cũng là thầy
giáo của chúng ta ở Quế Lâm. Chú Nguyễn Hữu Thức là y tá chăm lo sức khoẻ cho
đoàn, Chú dẫn tôi từ quê tới nơi tập kết. Người bảo vệ đoàn là anh công an trẻ
Phạm Dương, nghe nói là bố của tỷ phú Phạm Nhật Vựơng, không biết có phải
không. Cả ba người nay đã khuất núi, không biết hỏi ai. O (Cô) Xuân (vợ Bác
Phạm Triều, Hiệu trưởng Lư Sơn, mẹ bạn Phạm Đức Nguyên K6) là o cấp dưỡng, lo
cơm nước trong suốt quãng đường hành quân. Cô nay đã gần 100 tuổi, sức khoẻ tuy
có yếu nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Đến giờ sau hơn sáu chục năm, chúng tôi vẫn
không thể quên các cô chú, các anh phụ trách, những người dẫn dắt giúp đỡ đàn
cháu nhỏ vượt qua bao gian khó để tới trường. Đoàn có hơn 40 em, chia làm 3
tiểu đội, tiểu đội tôi anh Trần Trí Luân là tiểu đội trưỡng, tôi tiểu đội phó.
Ngày ngủ, đêm đi, đói ăn khát uống, hơn ba tháng, chưa kịp quen nhau hết thì đã
tới trường, giải tán và biên chế về các lớp. Vì vậy tôi chưa biết hết tên các
bạn trong Đoàn và nay trong tiểu đội của mình tôi cũng không nhớ hết tên. Ở Lớp
6A nhiều bạn có mặt trong đoàn này: Trần Xuân Thạc, Trần Trí Luân, Đặng Thái
Hoàng, Ng. Khoa Diệu Thu,Ng. Thị Tố Lan, Phạm Đức Nguyên, Hồ Uy Liêm, Trần Minh Hà, Ng. Đức
Hân, Ng. Mộng Sinh, Trần Kiêm Tuấn, và Ng. Hồng Nhật. Các lớp dưới có: Ng. Thị
Ngọc Bích (Chưởng), Lê Minh Ngọc, Trần Xuân Hoài, Ng. Khoa Phi, Trịnh Thế
Phương, Hoàng Minh Tuệ, Hoàng thị Nhật Lệ, Ngô Hoàng Hà, Trần Công Thanh,
Nguyễn Quang Thuỳ, Hồ Xuân Nguyên, Đào Hồng Loan, Đặng Từ
Thiều, Vũ văn Hiệp, Trần Toản (Ổi), Cổ Thị Chắt, …
và gần cuối có thêm các bạn Muội, Hiên, Vinh, Oanh.
Một đêm hè năm 1953, trăng
non chưa ló, đoàn chúng tôi khởi hành từ Thanh Chương Nghệ An, đi bộ xuyên rừng
núi phía tây đất nước, nhằm điểm đến là cửa khẩu Đồng Đăng Lạng Sơn, để rồi từ
đấy lên Bằng Tường đi Lư Sơn, Trung quốc.
Hành trang của tôi khi rời
quê hương gia đình ra đi chỉ là chiếc ba lô vải nhỏ trong đó vỏn vẹn bộ quần áo
cộc màu nâu đã sờn. Ba tôi nhờ Chú Thức dẫn tôi tới nơi tập kết và mua cho
chiếc mũ lá, đôi dép cao su và cái cà mèn cùng chiếc thìa, những thứ này lần
đầu tiên tôi sử dụng. Còn tôi tự trang bị cho mình một súng cao su
(quê tôi gọi là nộ địu) khoác cổ và ít viên sỏi cho túi quần làm đạn, đi đường
gặp gì thích thì bắn như chim, trái chín nhãn, ổi... đó là thú vui nghịch ngợm
của tôi.
Trên đường hành quân các
chuyện vui buồn đều có.
Vào một đêm trăng, đoàn
chúng tôi qua đò Ghép (vì cầu đã bị phá huỷ do chủ trương tiêu thổ kháng chiến)
trên quốc lộ 1 phía nam Thanh hoá. Tôi gặp anh Chánh Thi, một bạn học ở trường
làng, anh thôi học theo cha dùng xe đạp thồ đường phên do gia đình sản xuất đem
ra Thanh hoá bán, thời đó quê tôi có tiếng về sản xuất đường thủ công. Cũng
không biết vì lý do gì, tôi rời quê một cách thầm lặng và Thi là người bạn đồng
hương duy nhất tôi có dịp gặp để chia tay, không ngờ đây lại là cuộc chia tay
vĩnh viễn bởi hơn chục năm sau anh hy sinh cùng hầu như toàn bộ chiến sỹ của
đại đội pháo cao xạ trong trận đánh bảo vệ cầu Bến Thuỷ-Bạn tôi đã hy sinh vì
Tổ quốc.
Hành quân ở vùng tự do thì
được hát hò thoải mái hơn, vui để quên mệt. Một người lĩnh xướng:
" Đèo cao thì mặc đèo
cao" cả đoàn hưỡng ứng: "a li hò lờ"
" Tinh thần khắc phục
còn cao hơn đèo" hò lơ ơ lơ lắng tai nghe tiếng ai nay hò lờ. . .
Nhưng tới những đoạn đường
gần vùng tạm chiếm, chúng tôi được lệnh tuyệt đối không trò chuyện, được biết
cũng có đoàn đã bị địch oanh tạc gây thương vong không ít.
Tới Phố Cát (Thanh Hóa)
chúng tôi được ngồi xe trâu có mái che, qua Rịa để đến Nho Quan, trời mưa bùn
lầy lội, những đứa trẻ đầu gật gà gật gù theo nhịp bước chân trâu, đi trong
tĩnh lặng. Đây là nơi giáp ranh ta và địch. Ở thị trấn Nho Quan, hàng hoá phong
phú hơn các nơi, hàng ở vùng tự do về, hàng ở vùng địch tạm chiếm ra có thuốc
tây đường sữa, nilong che mưa là những của hiếm ở vùng tự do, đêm đèn măng-sông
sáng trưng. Mười bạn khu ba nhập đoàn chúng tôi tại đây. Từ Nho Quan chúng tôi
theo tỉnh lộ lên Mãn Đức vượt Dốc Cun, nơi nổi tiếng nhiều hổ dữ, sang thị xã
Hoà Bình. Trận giải phóng Hòa Bình vừa kết thúc, xác xe tăng địch còn rải rác
dọc đường đi.
Lúc này có bạn khu ba,
ngôn ngữ trung bắc lẫn lộn, nên cũng lắm chuyện buồn cười.Trên cung đường hành
quân từ Nho Quan lên Mãn Đức, trong đêm, ánh sao mờ mờ chỉ cách vài mét là
không nhìn thấy nhau, bởi vậy theo quy định mỗi người có một gậy tre (người
trước cầm một đầu, người sau cầm một đầu để khỏi lạc nhau và không bị đứt quãng
do các bạn hay ngủ gật). Khi nhóm dẫn đường phát hiện có một hố sâu giữa đường,
thì tín hiệu được truyền cho các đoàn viên đi sau: có HỐ. Tín hiệu truyền qua
chục bạn thì bị "méo" thành có HỔ. Hơn nữa đoàn phía sau tinh thần ai
cũng căng như dây đàn vì sợ bị khái bắt (hổ vồ). Phía trước thì đi chậm lại
phía sau dồn lên, tôi đi sau cùng của tiểu đội cũng vội bước, đi thêm vài chục
mét thì chỉ thấy cái hố sâu bên đường, có bạn hô to " bây ơi, cái bộông (cái hố) chớ nỏ (không) phải khái mô (hổ đâu)
mà hại (sợ)", thế là cả đoàn
cười ầm lên, quên cả mệt nhọc và buồn ngủ. Lại chuyện tôi mất điểm thi đua, chả
là khi tới thị xã Hoà Bình, cả đoàn ngồi nghỉ ngay trên quốc lộ 6, cây cối un
tùm nhìn không thấy trời, tôi được anh Dương công an giao giữ khẩu tiểu liên
(chắc anh thấy tôi có súng cao su nên tin tưởng), tôi đặt súng bên người rồi
ngồi ngủ, khi trở lại tiếp tục hành quân tôi để quên súng, bạn Xuân Thạc nhặt
được trả lại anh Dương, thế là tôi bị cắt điểm thi đua. Từ Hoà Bình, chúng tôi
được ngồi thuyền xuôi Sông Đà về Việt Trì, rồi lại đi bộ xuyên qua chiến khu
Việt Bắc theo quốc lộ 4 để lên cửa khẩu Đồng Đăng.
Thường thì sau cơm chiều,
nghỉ ngơi chút ít rồi chúng tôi lên đường, đi đến khoảng mười một mười hai giờ
thì tới nơi nghỉ, rửa chân cẳng qua loa rồi lăn ra ngủ. Vùng Cao, Bắc, Lạng ở
nhà sàn rộng thì nam một hàng, nữ một hàng quay đầu vào nhau, ba lô là gối, áo
quần, vải mưa, tơi làm chăn, đánh một mạch tới khi nào các chú phụ trách gọi
mới dậy. Thời ấy chứ nay thì thế nào cũng có bạn nữ bị dật tóc!
Tháng 9/2015 vừa qua, được bạn Đặng Từ Thiều
(hậu duệ Đặng Tất-Đặng Dung) mời các thành viên Đoàn 10 ở HN lên thăm trang
trại ở Xuân Mai, buổi trưa các bạn nữ ôn lại kiểu ngủ ngày xưa ấy, nhưng Quang
Thuỳ chuyện nổ như ngô rang vì lâu mới có dịp gặp bạn bè hội ngộ làm không ai
ngủ được... Còn cháu gái bà Thiều và cháu trai ông Liêm mới gặp nhau lần đầu đã
quấn quýt như bậc tiền bối của chúng vậy (Thiều tiết lộ: Liêm là thần tượng của
Thiều thời xa vắng).
Thật cũng lạ, thời gian
hơn ba tháng trong cả đời người bảy tám mươi năm thì chẳng là bao vậy mà đã để
lại trong tôi dấu ấn sâu đậm đến vậy. Khi còn học tập và công tác, tuy vùi đầu
vào công việc nhưng thi thoảng vẫn nhớ các cô chú phụ trách, nhớ các bạn đoàn
10: Cô Xuân tòng teng đôi quang gánh với nồi, chảo và ít thực phẩm. Bóng dáng
bạn Hưng bé nhất đoàn có lần ốm các chú phải cõng, rồi bạn nữ nhỏ nhất tiểu đội
tôi, có tên lót trùng với tên tôi, thường mặc áo sơ mi ca ki xanh thi thoảng
được anh Hiệp cõng qua suối để khỏi ướt quần bỡi không có quần thay . Về hưu được một thời gian, tôi nghĩ đến việc
lập một "sân nhỏ" riêng của Đoàn 10 trong "sân
lớn" của đại gia đình LS QL. Ý tưởng được nhiều bạn hưởng ứng và cung cấp
thêm thông tin liên quan, từ đấy tôi có một danh sách tương đối, trong đó có cả
bạn Đoàn 9 cũng tham gia, thôi thì cá ngon vào ao ta, ta được. Tôi cảm thấy bùi
ngùi khi trong danh sách mình lập, có nhiều bạn đã đi xa. Trịnh Thế Phương là
người đầu tiên hy sinh tại mặt trận miền nam. Năm ngoái, các bạn HN vào cùng
các bạn SG đi Bảo Lộc, tại "Ngô Gia Trang" Vũ Quang Trung cho xem ảnh
cô gái xinh đẹp Cổ Thị Chắt là thành viên của Đoàn 10, đã mất từ lâu, tôi thấy
áy náy về sự vô tình của mình. Cuộc tái ngộ lần đầu sau hơn 60 năm được tổ chức
tại Quán Gió công viên Thống Nhất Hà Nội ngày 13/4/2014, có 14 bạn, nhiều bạn
sau hơn 60 năm nay mới gặp lại, vậy mà có bạn nam vẫn ngỡ thần tượng của mình
trẻ trung, xinh đẹp, mắt đen hạt huyền, môi cười chúm chím như thời nào, gặp
nhau mới thấy bạn mình giờ trên đầu có nhiều hoa muối, mắt đã có vết nhăn, đã
bước sang tuổi xưa nay hiếm rồi mà. Ở Sài Gòn Minh Hà cùng Nhật Lệ cũng tập hợp
được khá đông đoàn viên Đoàn 10. Tiếp đó, nhiều cuộc vui hội ngộ của các bạn
Đoàn 10 trong Nam ra, ngoài Bắc vô, gặp nhau ríu rít như thể là anh chị em ruột
khác cha khác mẹ vậy. Ấn tượng nhất là chuyến Bắc Nam cùng trở về cội nguồn do
Trần Gia Ninh (Xuân Hoài) hướng đạo. Trên đường Xuân Hoài đã kể rất nhiều chuyện
về những nơi anh chị em ta đã để lại dấu chân và nhiều địa danh lịch sử mà Xuân
Hoài đã có dịp nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết "Kim Thiếp Vũ Môn" của
mình. Cũng trong chuyến hành trình này, Hồ Uy Liêm đã thú nhận chuyện ăn mảnh
hộp sữa không xong. Liêm kể rằng trước lúc lên đường, Liêm được bà chị dúi cho
hộp sữa Nestle để bồi dưỡng khi mệt. Đi được hơn chục ngày, Liêm đục ra hút
uống, nhưng hút gân cả cổ mà sữa không ra, tất nhiên để bảo mật, Liêm chỉ hút
khi hành quân trong đêm tối, đã mấy ngày mà vẫn không được, (giá thời nay thì
Liêm nghi ngay là sữa dởm TQ). Thôi, đành thổ lộ với đ/c X đi phía sau mình, X
có chút từng trải và tinh ranh hơn nên bảo Liêm: mở thêm một lỗ nữa, "rất
thành công", nhưng thay vào đó Liêm phải cho X cùng hưởng thành quả. Vậy
đấy có chút hiểu biết vẫn đắc lợi, khác gì đất nước ta nay có chỗ nào thơm thơm
lại phải gọi thằng Tây Tàu vào để chúng ngửi. Vui nhất là khi lên đến đèo ĐÁ
ĐẼO, bạn trai bạn gái ôm nhau chụp hình, rồi khúc khích hỏi nhau: đã chưa? Bạn
Nông sản phụ buồn rầu: Ở đây Đá chưa đẽo! Khoa Phi thì dẫn Nghĩa đứng dưới lùm
cây chụp ảnh, tôi không nói oan đâu, có hình làm bằng đấy. Chiều hôm đó, chúng tôi
tới cầu Nhật Lệ, ai cũng nghĩ bạn Nhật Lệ quê nơi đây, nhưng Nhật Lệ thì
bảo:Tưởng Zậy mà không phải Zậy (đây chỉ là nơi sinh của Lệ thôi) Còn Xuân Hoài
thì đang mơ bài tập bản valse “sóng Nhật Lệ” đầu đời! Chiều về khách sạn, Nghĩa
bị mệt, mặt hơi xanh, lại còn ọ ẹo nữa, Quang Thuỳ yêu cầu đi mua que thử
quickstick để quy trách nhiệm, thấy vậy Khoa Phi chuồn mất, tôi đành nhận tránh
nhiệm về mình vì tôi có chụp ảnh riêng cùng Nghĩa, may sao chín tháng mười ngày
đã qua mà không có chuyện xẩy ra. Sáng hôm sau chúng tôi tạm biệt dòng
Sông Nhật Lệ, qua viếng mộ Đại Tướng, thăm khu di
tích Đồng Lộc. Cả đoàn ghé nhà thờ họ Ngô của Ngô Hoàng Hà ở làng Trảo Nha. Quá
trưa, Minh Hà và Khắc Hân mời cơm cả đoàn tại nhà hàng của Gì Yến ở Hồng Lĩnh,
lâu lắm rồi mới được thưởng thức bữa cơm tại quê hương ngon đến vậy.
Chuyến đi quá vui, những
mái đầu tuy đã bạc, đường xa đã thấy lưng ê ẩm, nhưng mọi người đều cảm thấy
tuổi thơ hồn nhiên trong sáng như mới thoáng qua đâu đây. Tình bạn thời tuổi
thơ nay càng đằm thắm hơn, động viên chia sẻ lúc vui buồn, cùng lo lắng lúc ốm
đau chỉ có ở LS QL trong đó có Đoàn 10 chúng tôi.
Chẳng thế mà các bạn SG vừa rồi ra đã đề nghị tôi: "Ta mần chuyến
nữa anh Nhật hè!".Thật hạnh phúc khi được hưởng sự ngọt ngào, trong sáng
của tình bạn từ thủa ấu thơ.
Chuyện Đoàn 10 xưa và nay tôi chép lại mấy dòng để khi có
dịp lại kể cho nhau nghe, vui buồn cùng nhau chia sẻ.
Hà Nội, 1-4-2016 (ngày cá tháng tư!)
-----------------------------------------
Nguyên tác được tác giả gửi qua E-Mail
Nguyên tác được tác giả gửi qua E-Mail
Tình quê nghĩa bạn bồi hồi
Trả lờiXóaĐọc trang NHẬT ký thấy đời HỒNG say...
Chúc mừng anh HN có bài viết hay ạ!
Hồ Uy Liêm ở K 5, không ở 6A
Trả lờiXóaAnh H.Nhật có trí nhớ tôt, bài viết di dỏm và hơi bị... "hóm".
Trả lờiXóaChúc mừng anh SK được hồi phục và đã béo đỏ, đi chơi nhiều và lái giỏi (nói lái theo kiểu miền Trung- Đ 10).