Lễ hội Đền Hùng 2016 ( 4 ngày)- Gần 7 triệu người tham dự. Gần 70 người chết !
Hội Gióng 4/2016 : Hỗn chiến ngay giữa sân Đền !
LỜI DẪNSau Tết Nguyên Đán Bính Thân 2016 ở hai miền Nam Bắc đã diễn ra rất nhiều lễ hội dân gian. Mới đây nhất là lễ hội Đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương chính thức diễn ra từ 14-18/4.
Theo thống kê của Bộ VHTTDL tới năm 2015, cả nước có hơn 8000 lễ hội. Trong đó có hơn 7000 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử, 544 lễ hội tôn giáo.
Lễ hội dân gian (LHDG) ở Việt Nam là một sinh hoạt dân chủ của cộng đồng và bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Một biểu tượng hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui. Lễ hội là một nét đẹp thuộc về bản sắc và di sản văn hóa dân tộc đáng để chúng ta trân trọng và gìn giữ.
LHDG bao gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ thường diễn ra ở những nơi trang nghiêm như trong hoặc trước cửa đình, đền, chùa… Phần lễ của lễ hội là để giao tiếp với thần linh thông qua các nghi thức tín ngưỡng thể hiện nguyện vọng hay ký ức của một cộng đồng. Lễ hiến tế là một phần quan trọng của lễ hội. Phần hội diễn ra ở một “không gian mở” rộng lớn hơn, cho toàn thể cộng đồng và người ngoài cộng đồng có thể tham gia.
Thời gian gần đây, cùng với sự phục hưng và phát triển lễ hội, hoạt động lễ hội hiện nay thường kèm với rất nhiều hiện tượng phản cảm thiếu văn hóa. Đi ngược lại ý nghĩa nguyên thủy, bản chất tốt đẹp ban đầu của lễ hội.
Chúng ta thấy có một sự khác biệt nhất định khá rõ rệt trong cách tham dự và tổ chức lễ hội giữa các vùng văn hóa nói riêng và ở hai miền Nam Bắc nói chung. Một vấn đề được bàn thảo sôi nổi trên các phương tiện truyền thông.
Có nhiều ý kiến, cách lý giải khác nhau về nguyên nhân của sự khác biệt. Một số ý kiến cho rằng đó là hệ quả của hai phong cách giáo dục Nam Bắc từ sau 1954.
Một số ý kiến khác cho rằng sự khác biệt có nguồn gốc từ tính liên tục trong văn hóa lễ hội hai miền. Trong khi văn hóa lễ hội miền Bắc bị “đứt đoạn” phát triển thời kỳ 1954 -1990 thì văn hóa lễ hội miền Nam phát triển tương đối liên tục.
Cũng có ý kiễn cho rằng sự khác biệt được qui định bởi chiều sâu tiếp nhận ý thức hệ.
Theo tôi mỗi cách lý giải đều ít nhiều có cơ sở. Dưới đây tôi xin phép trình bày cách hiểu của riêng mình thông qua việc giới thiệu LHDG miền Nam.
LỄ HỘI PHƯƠNG NAM
Sự khác biệt trong văn hóa lễ hội Nam Bắc có lẽ có nguồn gốc khá sâu xa. Ngay từ thời nhà Nguyễn, thậm chí có thể là từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
Các Chúa nhà Nguyễn bắt đầu từ Nguyễn Hoàng trong quá trình Nam Tiến do hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống chiến binh dịch chuyển nên đã chọn thực học để tồn tại, để làm ăn và giao thương.
Phong cách chủ đạo của các chiến binh Chúa Nguyễn trong quá trình Nam Tiến là trọng võ, trọng thương và tìm cách giao hòa thu phục cư dân bản địa.
Ngoài các giá trị Khổng Nho cơ bản, các Chúa Nguyễn đã cố gắng chấn hưng các giá trị Phật Giáo của các triều đại Lý Trần. Huế là điểm dừng chân thứ nhất của các Chúa Nguyễn cũng là trung tâm Phật Giáo đầu tiên của xứ Đàng Trong.
Khác với Vua Lê Chúa Trịnh các chúa Nguyễn đều là những Phật tử mộ đạo. Nhiều người trong Hoàng tộc và triều đình nhà Nguyễn cũng là Phật tử. Phật Giáo ở Đàng Trong rất được các Chúa Nguyến khuyến khích phát triển.
Với ý thức giao hòa và thu phục cư dân bản địa trong quá trình Nam Tiến người Việt đã tiếp thu một cách tự nguyện các yếu tố văn hóa Chàm, Hoa Minh Hương, Khmer. Ý thức này cùng với cuộc khẩn hoang vĩ đại trên mảnh đất Nam Bộ phì nhiêu sau đó làm cho người Việt phương Nam trở nên phóng khoáng, độ lượng, đa nguyên và bao dung hơn.
Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tôn giáo, hình thành tôn giáo mới, tín ngưỡng dân gian và hoạt động lễ hội ở miền Nam.
Ba yếu tố tôn giáo, lịch sử và kinh tế xã hội là những yếu tố chính ảnh hưởng đến văn hóa, phong cách LHDG miền Nam tạo nên sự khác biệt.
Lễ hội Ka Tê của người Chăm
Yếu tố tôn giáo
Phật Giáo Đại Thừa Đàng Trong khi vào Nam Bộ hòa nhập
khá nhuần nhuyễn với Phật Giáo nguyên thủy Nam Tông của người
Khmer nên bao dung, giản dị và phát triển rộng rãi hơn. Tiền
đề cho việc hình thành các khuynh hướng Phật Giáo khác ngoài
Phật Giáo truyền thống.
Một trong những biểu hiện của Phật Giáo thực học là Phật
Giáo Hòa Hảo đồng bằng sông Cửu Long. Có thể coi Phật Giáo
Hòa Hảo (gần 2 triệu tín đồ) là một hình thức Tin Lành Phật
Giáo.
Tính chất đa nguyên tín ngưỡng bao dung của văn hóa miền
Nam làm cho Công Giáo ở xứ Đàng Trong và sau này là Nam Kỳ
cũng ít bị kỳ thị và áp chế hơn ở Đàng Ngoài, Bắc Hà.
Công Giáo nhờ đó phát triển mạnh hơn. Đặc biệt sau 1954 khi
có thêm cộng đồng Công Giáo di cư từ miền Bắc.
Đa nguyên tín ngưỡng và văn hóa cũng là tiền đề cho sự
phát sinh Cao Đài một tôn giáo Syncretiс đặc biệt của miền
Nam thu hút được nhiều tín đồ (khoảng 3 triệu).
Sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của tôn giáo cho phép
dân chúng ở nơi thôn dã tận cùng vẫn có thể tự tu tập
(thậm chí tại gia như Phật Giáo Hòa Hảo). Tránh được mê tín
dị đoan (chẳng hạn ở miền Nam không có hầu đồng).
Có lẽ đó là lý do tại sao so với miền Bắc ở miền Nam
tỷ trọng lễ hội tôn giáo (LHTG) trong toàn bộ các lễ hội
cao hơn.
Ta có thể nhận thấy điều này khi so sánh cơ cấu lễ hội
hai tỉnh Cà Mâu và Hải Dương. Ở Cà Mau trong tổng số hơn
119 lễ hội, LHTG là 79, LHDG là 40. Trong khi tỉnh Hải
Dương với tổng số 723 lễ hội, LHTG là 7 và LHDG là
715 tương ứng.
Ảnh hưởng mạnh mẽ, áp đảo của các tôn giáo vốn dĩ
đã góp phần hạn chế tín ngưỡng dân gian miền Nam
lại thêm tính thực tế của người làm ăn nên ở miền Nam
(trừ Tây Nguyên) ít có các LHDG đặc sắc nông nghiệp
có tính chất hiến tế bạo lực gắn với các từ CHÉM, ĐÂM,
CHỌI, CƯỚP …. khá nhiêu khê về tổ chức và không phù hợp
với tinh thần Phật Giáo.
Cũng không có lễ hôi tranh đoạt đối kháng quyết liệt
CƯỚP “miếng giữa làng” theo tinh thần Khổng Nho ở miền Nam.
Thay cho Chọi trâu Đồ Sơn ở miền Nam có Đua bò An Giang
với kết thúc “có hậu’’ cho các tay đua.
Đó là điểm khác biệt thứ nhất đáng lưu ý về văn hóa
LHDG nói riêng và văn hóa tâm linh nói chung của người miền
Nam.
Yếu tố lịch sử
Văn hoá của lưu dân Việt trên đất Nam Bộ ngay buổi
đầu vốn là một nền văn hoá “biên ngoại” ít chịu sự
ảnh hưởng rõ ràng và trực tiếp từ văn hoá Khổng Nho
miền Bắc nhưng lại dễ dàng tiếp nhận một cách tự nguyện
các yếu tố văn hóa Chàm, Hoa Minh Hương, Khmer.
Đó chính là nguồn gốc của phong cách năng động, cởi mở
trong giao tiếp văn hoá của người Việt ở Nam Bộ. Một phong
cách văn hóa mới có tác động ngược lại đối với chế độ
phong kiến nhà Nguyễn đương thời.
Văn hóa dân gian Nam Bộ được thiết chế hóa “ĐÌNH HÓA”
rất muộn chỉ từ năm Tự Đức thứ 5 (1852) khi Minh điều
hương ước được ban hành khắp Nam Bộ nhằm tiêu chuẩn hóa
bộ máy tổ chức chính quyền cơ sở (xã, thôn, ấp), trong đó có
các chức dịch lo việc đình, miếu, lễ hội.
Minh triều hương ước chỉ qui định việc xây đình, nên
người dân tự động dựng thêm cả chùa và miếu (với số
lượng rất lớn)… dành cho Phật Giáo và tín ngưỡng dân gian.
Nhờ đó người Việt phương Nam đã dần dần “ÉP” được
Triều đình phải hợp thức hóa tín ngưỡng dân gian.
Cuối cùng thì Triều đình cũng phải nhượng bộ chính
thức sắc phong nhiều nhân thần và nhiên thần của Chàm,
Hoa, Khmer,… từ lâu được đông đảo người Việt miền Nam tôn
thờ như Thiên y a na, Đại càn thánh nương nương, Linh sơn thánh
mẫu … Đặc biệt, sau này người ta còn trân trọng tôn
thờ cả những nhân vật như anh hùng chống Pháp Nguyễn
Trung Trực.
Ký ức lịch sử của lưu dân xuất phát từ ý thức
không quên cội nguồn khiến cho những người tổ chức
LHDG ở phương Nam thường tỏ ra “bảo hoàng hơn nhà
Vua”. Nghĩa là họ cố gắng “thiết chế hoá” các sinh hoạt
LHDG theo đúng phong cách cúng tế truyền thống của
Cung đình phong kiến để thể hiện tính chính thống.
Điều này giải thích tại sao LHDG người Việt ở Nam Bộ
thủa ban đầu có xu hướng nặng LỄ hơn HỘI. Đó là lý do
tại sao các LHDG Nam Bộ chủ yếu gắn với các từ CÚNG,
ĐÓN, RƯỚC .…
Đó là điểm khác biệt thứ hai của văn hóa LHDG miền Nam.
Yếu tố kinh tế và xã hội
Có thể nói sự khác biệt về lịch sử phát triển kinh
tế xã hội của miền Nam cũng đóng vai trò lớn trong văn
hóa lễ hội.
Trước hết phải nói rằng giao thương hàng hải và
tinh thần trọng thương đã được phát huy mạnh mẽ trong
toàn bộ lịch sử miền Nam làm thay đổi tư duy người Việt
Đàng Trong.
Tư duy này đã được củng cố và tiếp tục phát
triển lên mức cao hơn nhờ hai yếu tố: người Hoa Minh
Hương di cư ồ ạt vào Nam Bộ cuối thế kỷ 17
góp phần hình thành kinh tế sản xuất hàng hóa
và người Pháp đưa kinh tế thị trường sớm hơn và
mạnh hơn vào Nam Kỳ.
Những yếu tố này góp phần làm thay đổi nếp sống,
nếp nghĩ, văn hóa ứng xử của người miền Nam khá cơ bản. Họ
trở nên mạnh dạn, năng động, dám thay đổi và thực tế hơn
trong việc làm ăn. Cả trong đời sống tâm linh và trong
văn hóa lễ hội.
Do cấu trúc mở của làng xã miền Nam về không
gian (theo trục giao thông, kênh rạch) và về tinh thần
(không kỳ thị người ngụ cư, từng làng không có hương ước
riêng) nên sự giao tiếp chuyển dịch giữa các làng xã rất
thoải mái.
Thêm nữa là giao thông đi lại rất thuận tiên ở
một vùng đất mới cho phép ta lý giải tại sao
miền Nam ít lễ hội hơn miền Bắc. Các lễ hội cũng
tuyệt đối không có tính “cát cứ” địa phương.
Điều này cũng cho phép lý giải tại sao LHDG miền Nam
được chuẩn hóa, dịch vụ hóa dễ dàng và sớm hơn miền Bắc
(thực tế chính quyền miền Nam đã cố gắng làm việc này từ
cuối những năm 1960 ).
Kết quả là so với miền Bắc miền Nam ít lễ hội qui mô
làng xã hơn nhưng bù lại có nhiều lễ hội với số
lượng người tham dự khổng lồ it có ở miền Bắc.
Tiền đề cho việc những người tổ chức LHDG có điều
kiện đầu tư hiện đai hóa phần HỘI tăng thêm tính
hấp dẫn đối với người tham dự. Kết quả là hiện nay
phần HỘI tại các LHDG lớn đã được hiện đại hóa toàn
diện gần với chuẩn mực quốc tế.
Có những lễ hội qui mô rất lớn thu hút hàng
triệu người tham dự như Lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu (Bình
Dương), Núi Bà Đen (Tây Ninh), Bà Chúa Xứ (An Giang) và
Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực.
Đặc điểm chung của những lễ hội này là người tham dự
được ăn uống, thậm chí nghỉ ngơi miễn phí. Đóng góp tùy
tâm. Riêng Lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu thì ăn nghỉ hoàn
toàn miễn phí do dân địa phương tự nguyện đóng góp chiêu
đãi khách thập phương.
Trong những LHDG nói trên Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực là
một lễ hội rất đặc biệt (ba trong một), đặc sắc và tiêu
biểu.
Một lễ hội vừa có tính dân gian cúng giỗ một
nhân thần, vừa có tính lịch sử tưởng niệm một nhân vật
lịch sử, vừa có tính chất tôn giáo vì đó là dip bà
con Phật Giáo Hòa Hảo suy tôn ông Nguyễn Trung Trực (vốn là
đại tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương – tiền thân của PG hòa
Hảo).
Trong các Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực tín đồ PG Hòa Hảo
đóng vai trò chính trong công tác dịch vụ hậu cần. Đặc
biệt do có sự tham dự đông đảo của họ mà toàn bộ thức ăn
trong lễ hội là đồ chay.
Rõ ràng để tổ chức được những lễ hội như vậy nhất thiết
cần có Ban tổ chức điều phối chuyên nghiệp, chính quyền
địa phương công tâm phối hợp và ý thức tự giác, tự quản
cao của dân địa phương.
Đó là điểm khác biệt thứ ba đáng lưu ý của văn hóa LHDG miền Nam.
THAY CHO LỜI KẾT
Tương lai nào cho các LHDG? Cũng như mọi hiên
tượng văn hóa khác trong xã hội chỉ những LHDG nào có
nguồn gốc thực sự gắn với giá trị nhân bản, được tố
chức trang nghiêm, hài hòa hấp dẫn, không nặng tính thương
mại mới có cơ hội tồn tại và phát triển.
Trong quá trình phát triển văn hóa LHDG sẽ có sự cạnh
tranh, chọn lọc, tinh chắt một cách tự nhiên. Lễ hội nào
có trò “cướp, giết” không thể kiểm soát được tâm lý
đám đông dẫn đến lây lan hành vi vô văn hóa sẽ sớm
lụi tàn.
Những lễ hội tầm quốc gia nếu ngày càng hoàn thiện
tiến đến gần chuẩn văn minh nhân loại có thể thu
hút được không chỉ khách trong nước mà cả khách du
lịch nước ngoài.
Những lễ hội này bắt buộc phải đáp ứng được hai
tiêu chí: giữ được bản sắc dân tộc và phù hợp với tập quán
văn minh quốc tế.
Làm cách nào để phát triển văn hóa lễ hội và đưa lễ
hội về đúng với những giá trị nguyên thủy tốt đẹp
vốn có? Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Tôi xin trích ý kiến của PGS TS Nguyễn Trí Nguyên –
chuyên gia văn hóa học qua câu trả lời phỏng vấn báo
Tuổi Trẻ của ông về công tác tổ chức lễ hội:
“…Theo ông, mô hình lễ hội nào được tổ chức ổn nhất hiện nay?
Cách quản lý lễ hội ở Nam Bộ như Đồng Tháp, Kiên
Giang, An Giang là hình mẫu tích cực hiện nay. Dĩ
nhiên điều này một phần cũng do cơ tầng văn hóa
quyết định. Người Nam Bộ chịu ảnh hưởng bởi Phật giáo
Nam Tông, các chùa Khmer có vai trò lớn trong
việc tổ chức lễ hội, từ lễ hội Phật Giáo đến tín
ngưỡng cộng đồng.
Tính cộng đồng tự quản trong lễ hộ Nam Bộ rất
cao. Trong khi đó ở miền Bắc, tính tự quản rất thấp
do bị lợi dụng hoặc bị chính quyền địa phương can
thiệp. Nếu chuyện công khai minh bạch tiền công đức và
phương thức đóng góp tiền công đức đang là vấn
đề nổi cộm trong lễ hội miền Bắc thì tại các lễ hội
miền Nam, chuyện này được xử lý rất tốt.
Lễ hội Nguyễn Trung Trực là một hình mẫu đẹp. Trước lễ
hội, hàng vạn người đưa công đức về. Công đức là tiền, hoa
quả, bánh trái, gạo, thịt, rau quả… Ở đây có Ban cộng
đồng tự quản do dân bầu lên, có sổ sách thu chi
minh bạch. Trong lễ hội, số vốn công đức mang về có
thể nuôi cơm cho 2 vạn ngườ i ăn trong 5-10 ngày.
Vai trò Nhà nước ở đây là không can thiệp vào
công việc nội bộ mà là công nhận Ban tự quản do
dân bầu ra. Số tiền công đức lễ hội dư hàng tỉ, chục
tỉ để làm việc từ thiện, giúp người nghèo, xây
trường học, xây cầu, đường và các công trình công cộng…
Lễ hội bà Chúa Xứ năm rồi (2015) thu tiền công đức
gần trắm tỉ đồng. Tài chính minh bạch đến mức Ban tổ chức
trả lương, chi lương cho từng người lao động phục vụ
lễ hội được công khai hẳn hoi. Sau khi chi lương,
trùng tu thì họ tạo quỹ, xây trường, làm từ thiện…
Vậy cần trả lễ hội về cho nhân dân và tạo ra
cơ chế tự quản tốt để những chủ thể lễ hội
tự quản tài chính và cả xử lý các vấn đề nội
bộ. Vấn đề của các cơ quan chính quyền quản lý là
đảm bảo an ninh thật tốt để lễ hội diễn ra tốt đẹp….”
Lễ hội Nguyễn Trung Trực ( Rach Giá-Kiên Giang), được chia làm hai phần: phần lễ và
phần hội. Phần lễ gồm có rước sắc thần, lễ dâng hương, lễ cúng tế tại
đình. Phần hội gồm họat động văn hóa-nghệ thuật và những trò chơi đặc
sắc.
Nét độc đáo và riêng biệt của Lễ
hội truyền thống Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là những người đến
đình cúng, viếng, chiêm bái không chỉ được ăn, uống, xem văn nghệ miễn
phí, mà còn được ngủ nghỉ, khám bệnh bốc thuốc miễn phí. Đây cũng chính
là điểm đổi mới, thu hút của lễ hội.
Tác giả: TamHmong (Trần Công Tâm – Там Чан Конг)
Em rất đồng tình với quan điểm của tác giả: "trả lễ hội về cho nhân dân và tạo ra cơ chế tự quản tốt để những chủ thể lễ hội tự quản tài chính và cả xử lý các vấn đề nội bộ. Vấn đề của các cơ quan chính quyền quản lý là đảm bảo an ninh thật tốt để lễ hội diễn ra tốt đẹp….”
Trả lờiXóaLễ hội Nguyễn Trung Trực rất lớn nhưng tổ chức hết sức thành công. Hai phần Lễ và Hội rõ ràng . Toàn bộ ý tưởng, kết hoạch vận động, tuyên truyền, tổ chức thức hiện, kính phí, bảo vệ... thậm chí cả VSTP, giữ gìn môi trường giữa lòng thành phố ...tất cả đều do Nhân dân tự quản, chỉ cần Chính quyền ủng hộ chủ trương. Và chưa bao giờ có chuyện tiêu cực sảy ra ! Đây mới đúng là "Tinh thần Nhân dân" theo cách hiểu chữ " NHÂN DÂN" viết hoa ! Tại sao phía Bắc không tổ chức được các Lễ hội dân gian theo tinh thần như thế này ? Không khó trả lời !
Trả lờiXóa