Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

CẢM NGHĨ VỀ VĂN HÓA LỄ HỘI VIỆT NAM

Lễ hội Đền Hùng 2016  ( 4 ngày)- Gần 7 triệu người tham dự. Gần 70 người chết !

Lễ hội chùa Hương 3 Tết Bính Thân. Ảnh: HM
Lễ hội chùa Hương 3 Tết Bính Thân. Ảnh: HM
Hội Gióng 4/2016 : Hỗn chiến ngay giữa sân Đền !
LỜI  DẪN
Sau  Tết  Nguyên   Đán  Bính Thân  2016  ở   hai  miền  Nam   Bắc  đã  diễn  ra  rất   nhiều  lễ  hội  dân  gian. Mới đây nhất là lễ hội Đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương chính thức diễn ra từ 14-18/4.

Theo  thống  kê  của  Bộ  VHTTDL  tới  năm   2015, cả  nước  có  hơn  8000  lễ   hội. Trong  đó  có hơn 7000  lễ  hội  dân  gian, 332  lễ  hội  lịch  sử,  544  lễ    hội  tôn   giáo.
Lễ  hội  dân  gian (LHDG)  ở  Việt  Nam  là  một  sinh  hoạt  dân  chủ   của  cộng đồng   và   bao   giờ  cũng  hướng  tới   một  đối   tượng  thiêng  liêng  cần   suy    tôn  là   nhân  thần  hay  nhiên  thần. Một   biểu   tượng  hội  tụ  những   phẩm   chất   cao    đẹp   nhất   của   con  người. Giúp   con  người   nhớ  về  nguồn  cội,  hướng  thiện   và   nhằm  tạo  dựng  một  cuộc  sống  tốt   lành, yên   vui. Lễ   hội   là  một   nét   đẹp  thuộc  về  bản  sắc  và  di  sản   văn   hóa   dân  tộc  đáng   để   chúng  ta  trân  trọng  và   gìn   giữ.
LHDG   bao  gồm  phần  lễ   và   phần  hội. Phần   lễ  thường  diễn  ra  ở  những  nơi   trang  nghiêm  như  trong   hoặc  trước  cửa   đình,  đền, chùa… Phần  lễ   của  lễ   hội  là  để  giao  tiếp  với  thần  linh  thông  qua  các   nghi    thức  tín   ngưỡng   thể  hiện  nguyện  vọng  hay  ký  ức  của  một    cộng    đồng.  Lễ    hiến     tế     là    một    phần    quan  trọng  của  lễ   hội. Phần   hội  diễn  ra  ở  một “không  gian  mở”   rộng   lớn  hơn, cho  toàn  thể  cộng   đồng  và   người  ngoài  cộng  đồng  có   thể  tham gia.
Thời gian gần đây, cùng  với  sự  phục  hưng  và phát  triển  lễ  hội,  hoạt  động  lễ  hội  hiện  nay  thường  kèm  với  rất  nhiều  hiện  tượng  phản  cảm  thiếu  văn  hóa. Đi  ngược    lại  ý  nghĩa  nguyên   thủy, bản  chất  tốt  đẹp  ban  đầu  của  lễ  hội.
Chúng  ta  thấy  có  một  sự  khác  biệt  nhất  định  khá  rõ  rệt  trong  cách  tham   dự  và  tổ    chức    lễ    hội  giữa  các  vùng  văn  hóa  nói   riêng    và  ở  hai  miền  Nam   Bắc  nói  chung. Một  vấn   đề  được  bàn  thảo   sôi     nổi    trên  các   phương    tiện    truyền  thông.
Có    nhiều  ý  kiến,  cách  lý  giải  khác  nhau  về  nguyên  nhân  của  sự   khác  biệt. Một  số  ý  kiến  cho  rằng  đó  là  hệ  quả  của  hai  phong  cách  giáo  dục  Nam  Bắc  từ  sau 1954.
Một   số  ý  kiến  khác   cho  rằng  sự  khác  biệt  có    nguồn  gốc  từ   tính   liên  tục  trong  văn  hóa  lễ  hội  hai  miền.  Trong  khi   văn  hóa  lễ  hội  miền  Bắc  bị    “đứt   đoạn”  phát  triển  thời  kỳ   1954 -1990  thì  văn  hóa  lễ  hội  miền  Nam  phát  triển  tương  đối  liên  tục.
Cũng  có  ý  kiễn  cho  rằng    sự  khác  biệt  được  qui  định  bởi  chiều  sâu  tiếp  nhận  ý  thức  hệ.
Theo  tôi  mỗi  cách  lý  giải  đều  ít nhiều  có  cơ  sở. Dưới  đây   tôi  xin  phép  trình  bày  cách  hiểu  của  riêng  mình  thông  qua   việc   giới  thiệu LHDG  miền  Nam.
LỄ  HỘI  PHƯƠNG  NAM
Sự  khác  biệt  trong  văn  hóa  lễ  hội  Nam  Bắc  có  lẽ  có  nguồn  gốc  khá  sâu  xa. Ngay  từ  thời  nhà  Nguyễn, thậm  chí  có  thể  là  từ  thời Trịnh  Nguyễn  phân  tranh.
Các  Chúa  nhà  Nguyễn  bắt  đầu  từ  Nguyễn  Hoàng  trong  quá  trình Nam  Tiến  do  hoàn cảnh   khắc  nghiệt  của  cuộc  sống  chiến  binh  dịch chuyển  nên  đã  chọn  thực  học   để  tồn  tại, để  làm  ăn và  giao  thương.
Phong  cách   chủ  đạo  của  các  chiến  binh   Chúa  Nguyễn  trong  quá  trình  Nam  Tiến   là  trọng  võ,  trọng  thương  và  tìm  cách  giao  hòa  thu  phục  cư  dân  bản  địa.
Ngoài  các  giá trị  Khổng  Nho  cơ  bản, các  Chúa  Nguyễn  đã  cố  gắng   chấn  hưng  các  giá  trị  Phật  Giáo  của  các  triều  đại  Lý  Trần. Huế  là  điểm  dừng  chân  thứ  nhất  của  các  Chúa  Nguyễn  cũng  là  trung  tâm  Phật  Giáo  đầu  tiên  của  xứ  Đàng  Trong.
Khác  với  Vua  Lê  Chúa  Trịnh  các  chúa  Nguyễn  đều  là  những   Phật   tử  mộ  đạo. Nhiều  người  trong  Hoàng  tộc  và  triều  đình   nhà  Nguyễn  cũng  là  Phật  tử. Phật  Giáo  ở  Đàng  Trong  rất  được  các  Chúa  Nguyến  khuyến  khích  phát  triển.
Đua ghe Ngo trong lễ hội Đón năm
mới của người Kh'me Nam Bộ

Với  ý  thức  giao  hòa  và  thu  phục  cư  dân  bản  địa  trong  quá  trình  Nam  Tiến người  Việt  đã  tiếp  thu  một  cách  tự  nguyện  các  yếu  tố  văn  hóa  Chàm, Hoa  Minh  Hương, Khmer.  Ý  thức  này  cùng  với  cuộc  khẩn  hoang  vĩ  đại   trên  mảnh đất  Nam Bộ  phì  nhiêu sau  đó  làm  cho người  Việt  phương  Nam   trở  nên   phóng  khoáng, độ  lượng, đa  nguyên và  bao  dung  hơn.
Điều  này  có  ảnh  hưởng  rất  lớn  đến  hoạt  động  tôn  giáo, hình  thành  tôn  giáo  mới, tín   ngưỡng  dân  gian  và  hoạt  động  lễ  hội  ở  miền   Nam.
Ba   yếu   tố   tôn   giáo, lịch  sử  và   kinh  tế  xã  hội  là  những  yếu   tố  chính   ảnh   hưởng  đến  văn  hóa, phong  cách  LHDG  miền Nam   tạo  nên  sự  khác  biệt.
 Lễ hội Ka Tê của người Chăm

Yếu  tố  tôn  giáo
Phật  Giáo  Đại  Thừa  Đàng  Trong  khi  vào  Nam  Bộ  hòa  nhập  khá  nhuần nhuyễn  với  Phật  Giáo  nguyên  thủy  Nam  Tông  của  người  Khmer  nên  bao  dung, giản  dị  và  phát  triển  rộng  rãi  hơn. Tiền  đề  cho  việc  hình  thành  các  khuynh  hướng  Phật  Giáo  khác ngoài  Phật  Giáo  truyền  thống.
Một  trong  những  biểu  hiện của  Phật  Giáo thực  học  là  Phật  Giáo Hòa  Hảo  đồng  bằng  sông  Cửu Long. Có  thể  coi  Phật  Giáo  Hòa  Hảo (gần  2 triệu  tín  đồ) là  một  hình  thức  Tin  Lành  Phật  Giáo.
Tính  chất  đa  nguyên  tín  ngưỡng  bao  dung  của  văn  hóa  miền Nam  làm  cho  Công  Giáo  ở  xứ  Đàng  Trong  và  sau  này  là  Nam  Kỳ cũng  ít  bị  kỳ  thị  và  áp  chế  hơn  ở  Đàng  Ngoài, Bắc  Hà.  Công  Giáo  nhờ  đó  phát  triển  mạnh  hơn. Đặc  biệt  sau  1954  khi  có thêm  cộng  đồng  Công  Giáo  di  cư  từ  miền  Bắc.
Đa  nguyên  tín  ngưỡng   và  văn  hóa  cũng  là  tiền  đề  cho  sự  phát  sinh  Cao  Đài  một  tôn  giáo  Syncretiс  đặc  biệt  của  miền  Nam  thu hút  được  nhiều  tín  đồ (khoảng 3  triệu).
Sự  phát  triển  mạnh  mẽ  và  đa  dạng  của  tôn  giáo  cho  phép  dân chúng  ở  nơi   thôn  dã   tận  cùng  vẫn  có   thể   tự   tu  tập (thậm  chí  tại  gia  như  Phật  Giáo  Hòa   Hảo). Tránh  được  mê  tín  dị  đoan (chẳng  hạn ở miền  Nam  không  có   hầu  đồng).
Có  lẽ  đó  là  lý  do  tại  sao  so  với  miền  Bắc  ở  miền  Nam  tỷ  trọng  lễ   hội  tôn   giáo (LHTG)  trong   toàn  bộ  các  lễ  hội cao  hơn.
Ta  có  thể  nhận  thấy  điều  này  khi  so   sánh cơ  cấu  lễ  hội  hai    tỉnh  Cà   Mâu và  Hải  Dương.  Ở  Cà  Mau  trong  tổng  số  hơn  119  lễ  hội,  LHTG  là    79, LHDG  là  40.  Trong  khi  tỉnh  Hải  Dương  với    tổng   số  723  lễ  hội,  LHTG   là  7  và   LHDG  là  715   tương  ứng.
Ảnh   hưởng   mạnh  mẽ, áp  đảo  của   các   tôn   giáo  vốn  dĩ   đã   góp   phần    hạn   chế   tín  ngưỡng   dân   gian   miền  Nam   lại  thêm  tính  thực  tế   của  người   làm  ăn  nên  ở   miền   Nam (trừ   Tây  Nguyên)  ít   có  các  LHDG    đặc  sắc  nông   nghiệp   có   tính  chất   hiến   tế   bạo  lực   gắn  với  các  từ  CHÉM, ĐÂM, CHỌI, CƯỚP ….  khá  nhiêu  khê   về   tổ  chức  và  không   phù  hợp  với  tinh   thần  Phật  Giáo.
Cũng  không  có   lễ   hôi  tranh  đoạt  đối  kháng  quyết  liệt  CƯỚP  “miếng  giữa  làng”  theo   tinh  thần  Khổng  Nho  ở  miền   Nam. Thay  cho  Chọi  trâu  Đồ  Sơn  ở miền  Nam  có  Đua  bò  An  Giang  với  kết  thúc “có  hậu’’  cho  các  tay  đua.
Đó  là  điểm  khác  biệt  thứ  nhất  đáng  lưu  ý  về  văn  hóa  LHDG  nói riêng  và  văn  hóa  tâm  linh  nói  chung  của  người   miền  Nam.
Yếu  tố  lịch  sử
Văn  hoá  của   lưu   dân    Việt  trên   đất  Nam  Bộ  ngay  buổi  đầu  vốn  là   một    nền   văn   hoá   “biên  ngoại”  ít  chịu   sự  ảnh  hưởng  rõ  ràng  và   trực  tiếp  từ  văn  hoá   Khổng  Nho  miền    Bắc   nhưng  lại  dễ  dàng  tiếp   nhận  một   cách  tự  nguyện  các  yếu  tố  văn  hóa  Chàm, Hoa  Minh  Hương, Khmer.
Đó  chính   là  nguồn  gốc  của  phong  cách  năng  động, cởi  mở  trong  giao  tiếp  văn  hoá  của  người Việt  ở  Nam  Bộ.  Một  phong  cách  văn  hóa  mới  có  tác  động  ngược  lại  đối  với  chế  độ  phong  kiến   nhà  Nguyễn  đương  thời.
Văn   hóa  dân  gian  Nam  Bộ  được  thiết  chế  hóa  “ĐÌNH  HÓA”  rất   muộn  chỉ  từ  năm  Tự  Đức  thứ  5 (1852)  khi  Minh  điều  hương  ước  được  ban   hành   khắp   Nam  Bộ  nhằm  tiêu  chuẩn  hóa  bộ  máy  tổ chức  chính  quyền   cơ  sở  (xã, thôn, ấp), trong  đó  có  các  chức  dịch  lo  việc  đình, miếu, lễ  hội.
Minh  triều  hương  ước  chỉ  qui  định  việc  xây  đình, nên  người   dân   tự  động   dựng  thêm  cả   chùa  và  miếu (với   số   lượng  rất  lớn)… dành  cho  Phật  Giáo  và   tín  ngưỡng  dân  gian.  Nhờ   đó  người  Việt  phương  Nam   đã   dần  dần   “ÉP”  được   Triều   đình   phải  hợp   thức   hóa   tín  ngưỡng  dân  gian.
Cuối   cùng   thì  Triều  đình  cũng  phải   nhượng   bộ  chính  thức   sắc phong   nhiều   nhân   thần  và   nhiên   thần   của  Chàm, Hoa, Khmer,… từ  lâu    được  đông  đảo  người   Việt  miền  Nam  tôn  thờ  như  Thiên y a na, Đại  càn  thánh  nương  nương, Linh  sơn  thánh  mẫu … Đặc  biệt, sau  này    người  ta   còn   trân   trọng    tôn    thờ   cả   những   nhân   vật    như  anh  hùng  chống  Pháp  Nguyễn  Trung  Trực.
Ký    ức   lịch   sử   của   lưu   dân  xuất  phát   từ   ý  thức   không   quên  cội   nguồn    khiến   cho   những   người   tổ   chức  LHDG   ở    phương  Nam   thường    tỏ   ra  “bảo   hoàng   hơn   nhà   Vua”. Nghĩa  là  họ  cố  gắng  “thiết   chế   hoá”  các   sinh   hoạt   LHDG   theo   đúng   phong  cách   cúng    tế    truyền    thống   của   Cung   đình   phong   kiến  để   thể    hiện   tính   chính   thống.
Điều   này  giải  thích  tại  sao  LHDG  người  Việt  ở    Nam  Bộ  thủa  ban  đầu  có   xu  hướng  nặng  LỄ  hơn   HỘI.  Đó   là  lý  do   tại    sao   các  LHDG  Nam  Bộ  chủ   yếu  gắn  với   các   từ   CÚNG,  ĐÓN,  RƯỚC .…
Đó  là  điểm  khác  biệt  thứ  hai  của  văn  hóa  LHDG   miền  Nam.
Yếu  tố   kinh  tế  và  xã  hội
Có   thể   nói   sự   khác  biệt  về  lịch  sử  phát  triển  kinh  tế  xã  hội  của  miền  Nam  cũng   đóng  vai  trò   lớn   trong   văn   hóa  lễ  hội.
Trước  hết   phải   nói   rằng   giao   thương   hàng   hải   và   tinh   thần  trọng   thương  đã   được  phát  huy  mạnh   mẽ  trong  toàn  bộ  lịch  sử  miền  Nam  làm  thay  đổi  tư  duy người  Việt   Đàng  Trong.

Tư   duy   này   đã   được   củng   cố   và   tiếp  tục   phát   triển   lên  mức  cao   hơn   nhờ   hai   yếu   tố: người   Hoa  Minh   Hương  di   cư   ồ   ạt  vào   Nam   Bộ    cuối    thế    kỷ   17  góp    phần   hình    thành    kinh   tế    sản    xuất    hàng    hóa   và   người   Pháp   đưa   kinh   tế    thị  trường   sớm  hơn  và   mạnh  hơn  vào  Nam Kỳ.
Những   yếu   tố   này   góp   phần   làm  thay   đổi   nếp   sống, nếp   nghĩ, văn  hóa  ứng  xử  của  người  miền  Nam  khá  cơ   bản. Họ  trở  nên mạnh  dạn,  năng  động, dám  thay  đổi  và  thực   tế   hơn  trong  việc  làm   ăn.  Cả  trong  đời  sống  tâm  linh  và  trong   văn   hóa   lễ    hội.
Do   cấu   trúc   mở   của   làng   xã   miền   Nam   về   không   gian  (theo   trục   giao  thông, kênh  rạch) và   về   tinh   thần  (không  kỳ  thị  người  ngụ  cư,  từng  làng   không  có  hương  ước   riêng) nên  sự  giao  tiếp  chuyển   dịch  giữa   các   làng   xã  rất   thoải   mái.
Thêm   nữa   là   giao   thông   đi   lại   rất   thuận   tiên   ở   một   vùng  đất    mới     cho    phép   ta   lý  giải    tại   sao    miền    Nam   ít    lễ    hội   hơn  miền  Bắc.  Các   lễ   hội  cũng   tuyệt  đối  không  có  tính  “cát  cứ”   địa  phương.
Điều  này  cũng  cho  phép   lý  giải   tại    sao  LHDG  miền   Nam  được   chuẩn  hóa,  dịch  vụ  hóa  dễ  dàng  và  sớm  hơn  miền  Bắc  (thực  tế   chính  quyền  miền  Nam  đã  cố  gắng làm  việc  này   từ  cuối  những  năm  1960  ).
Kết  quả  là  so  với  miền  Bắc  miền  Nam  ít   lễ   hội  qui  mô  làng  xã     hơn   nhưng  bù  lại   có   nhiều   lễ   hội   với  số  lượng  người  tham  dự   khổng  lồ  it  có  ở  miền  Bắc.
Tiền   đề   cho   việc   những  người  tổ   chức  LHDG  có   điều   kiện   đầu  tư    hiện  đai   hóa   phần  HỘI  tăng   thêm   tính   hấp   dẫn đối   với   người   tham  dự. Kết   quả    là   hiện  nay   phần   HỘI   tại  các LHDG  lớn  đã   được  hiện  đại  hóa   toàn   diện    gần  với  chuẩn  mực  quốc  tế.
Có   những   lễ   hội   qui  mô   rất  lớn   thu   hút   hàng   triệu  người   tham   dự   như  Lễ   hội   Chùa   Bà   Thiên  Hậu (Bình  Dương), Núi   Bà   Đen (Tây  Ninh), Bà   Chúa   Xứ (An  Giang)  và  Lễ   giỗ  Nguyễn  Trung  Trực.
Đặc   điểm   chung  của  những  lễ   hội   này  là  người   tham  dự  được   ăn   uống,  thậm  chí   nghỉ  ngơi  miễn  phí.  Đóng  góp   tùy  tâm.  Riêng  Lễ   hội   Chùa   Bà  Thiên   Hậu  thì  ăn  nghỉ  hoàn  toàn  miễn  phí  do  dân  địa  phương  tự  nguyện  đóng  góp  chiêu  đãi   khách  thập phương.
Trong  những  LHDG  nói  trên  Lễ  giỗ  Nguyễn  Trung  Trực  là  một   lễ   hội   rất   đặc   biệt  (ba  trong  một), đặc  sắc  và  tiêu  biểu.
Một  lễ   hội   vừa   có   tính   dân   gian   cúng   giỗ   một  nhân   thần, vừa  có   tính  lịch  sử   tưởng  niệm   một   nhân   vật   lịch  sử, vừa   có   tính  chất   tôn   giáo  vì  đó  là  dip   bà  con  Phật   Giáo  Hòa  Hảo  suy  tôn  ông  Nguyễn  Trung  Trực (vốn  là  đại  tín  đồ  của  Bửu  Sơn  Kỳ  Hương – tiền  thân  của  PG  hòa  Hảo).
Trong  các  Lễ  giỗ   Nguyễn  Trung Trực   tín   đồ  PG  Hòa  Hảo  đóng  vai  trò    chính  trong  công   tác   dịch  vụ  hậu  cần.  Đặc  biệt  do  có  sự   tham  dự  đông  đảo  của  họ  mà  toàn  bộ  thức ăn  trong  lễ  hội  là  đồ  chay.
Rõ  ràng   để  tổ  chức  được  những  lễ  hội  như  vậy  nhất  thiết  cần  có  Ban   tổ   chức   điều   phối  chuyên  nghiệp, chính  quyền  địa  phương  công  tâm  phối  hợp  và  ý  thức  tự   giác, tự   quản   cao   của  dân  địa  phương.
Đó  là  điểm  khác  biệt  thứ  ba  đáng  lưu  ý  của  văn  hóa  LHDG  miền Nam.
THAY  CHO  LỜI  KẾT
Tương  lai   nào   cho   các   LHDG?   Cũng   như   mọi   hiên   tượng   văn hóa   khác   trong   xã  hội   chỉ   những  LHDG   nào  có   nguồn   gốc  thực   sự   gắn   với   giá   trị   nhân   bản, được  tố  chức  trang  nghiêm, hài   hòa  hấp  dẫn, không    nặng  tính  thương  mại  mới  có  cơ  hội  tồn  tại  và  phát  triển.
Trong  quá  trình  phát  triển  văn  hóa  LHDG  sẽ  có  sự  cạnh  tranh, chọn  lọc, tinh  chắt  một  cách  tự  nhiên.  Lễ   hội   nào   có   trò  “cướp,  giết”  không   thể    kiểm    soát  được  tâm  lý   đám   đông   dẫn   đến  lây   lan  hành  vi  vô  văn  hóa  sẽ   sớm  lụi   tàn.

Những  lễ   hội   tầm   quốc   gia   nếu  ngày   càng   hoàn   thiện  tiến  đến   gần   chuẩn   văn   minh   nhân   loại   có   thể   thu   hút   được  không   chỉ   khách   trong   nước   mà   cả   khách  du  lịch  nước  ngoài.
Những  lễ    hội    này  bắt    buộc  phải  đáp  ứng    được  hai  tiêu  chí: giữ  được  bản  sắc   dân  tộc  và  phù  hợp  với  tập  quán  văn  minh  quốc  tế.
Làm  cách  nào  để  phát  triển  văn  hóa  lễ  hội  và  đưa   lễ   hội   về  đúng   với    những    giá    trị   nguyên   thủy  tốt   đẹp   vốn   có?  Có  nhiều   ý   kiến   khác   nhau   về   vấn   đề   này.
Tôi   xin   trích   ý   kiến  của   PGS TS   Nguyễn  Trí   Nguyên –  chuyên   gia văn   hóa   học   qua   câu   trả   lời   phỏng  vấn  báo  Tuổi   Trẻ   của   ông   về   công   tác   tổ   chức   lễ   hội:
“…Theo  ông, mô   hình  lễ  hội  nào  được  tổ  chức  ổn  nhất  hiện  nay?
Cách   quản   lý   lễ   hội  ở  Nam  Bộ  như  Đồng  Tháp, Kiên  Giang, An  Giang  là    hình   mẫu   tích   cực   hiện  nay. Dĩ   nhiên   điều   này   một   phần   cũng   do   cơ   tầng   văn   hóa   quyết   định.  Người   Nam  Bộ  chịu   ảnh   hưởng   bởi  Phật   giáo   Nam   Tông,   các   chùa   Khmer   có  vai   trò   lớn    trong    việc    tổ    chức   lễ    hội,  từ    lễ   hội   Phật  Giáo  đến  tín  ngưỡng  cộng  đồng.
Tính   cộng   đồng   tự   quản   trong  lễ   hộ     Nam    Bộ   rất   cao. Trong  khi   đó   ở  miền  Bắc,  tính   tự  quản  rất     thấp   do  bị   lợi  dụng  hoặc   bị    chính   quyền   địa  phương  can  thiệp. Nếu   chuyện   công  khai  minh   bạch   tiền   công    đức   và  phương   thức   đóng    góp    tiền   công   đức   đang   là    vấn   đề   nổi   cộm   trong   lễ  hội   miền  Bắc  thì  tại  các   lễ  hội  miền   Nam, chuyện   này   được  xử  lý  rất  tốt.
Lễ   hội  Nguyễn  Trung  Trực  là   một   hình  mẫu  đẹp. Trước  lễ  hội, hàng  vạn   người  đưa  công  đức  về. Công  đức  là  tiền, hoa   quả,  bánh  trái, gạo,  thịt,  rau   quả… Ở  đây  có  Ban   cộng   đồng   tự   quản   do  dân   bầu   lên, có   sổ   sách   thu   chi   minh   bạch. Trong   lễ   hội, số  vốn   công   đức  mang  về  có   thể   nuôi   cơm  cho   2  vạn   ngườ i  ăn  trong  5-10  ngày.
Vai   trò   Nhà   nước   ở    đây   là  không   can    thiệp   vào    công   việc  nội   bộ   mà   là   công   nhận   Ban   tự   quản   do  dân   bầu  ra. Số  tiền  công   đức  lễ   hội   dư   hàng   tỉ, chục   tỉ   để   làm   việc   từ   thiện, giúp   người    nghèo,  xây   trường   học, xây   cầu, đường  và  các  công  trình  công  cộng…
Lễ   hội   bà  Chúa  Xứ  năm  rồi  (2015)   thu  tiền  công  đức  gần  trắm  tỉ   đồng. Tài   chính  minh   bạch  đến  mức  Ban  tổ  chức  trả  lương, chi  lương  cho   từng   người   lao   động   phục   vụ   lễ   hội   được   công  khai   hẳn   hoi. Sau   khi  chi  lương,  trùng   tu   thì   họ   tạo   quỹ, xây  trường, làm   từ  thiện…
Vậy   cần   trả   lễ   hội   về   cho   nhân   dân   và   tạo   ra   cơ   chế   tự  quản   tốt    để    những    chủ    thể    lễ    hội    tự    quản    tài   chính  và   cả    xử   lý  các   vấn   đề    nội   bộ. Vấn   đề    của    các   cơ   quan  chính  quyền  quản  lý   là   đảm  bảo  an   ninh   thật   tốt  để   lễ   hội  diễn  ra   tốt   đẹp….”
Lễ hội Nguyễn Trung Trực ( Rach Giá-Kiên Giang), được chia làm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm có rước sắc thần, lễ dâng hương, lễ cúng tế tại đình. Phần hội gồm họat động văn hóa-nghệ thuật và những trò chơi đặc sắc.
Nét độc đáo và riêng biệt của Lễ hội truyền thống Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là những người đến đình cúng, viếng, chiêm bái không chỉ được ăn, uống, xem văn nghệ miễn phí, mà còn được ngủ nghỉ, khám bệnh bốc thuốc miễn phí. Đây cũng chính là điểm đổi mới, thu hút của lễ hội.

Tác giả: TamHmong (Trần Công Tâm – Там Чан Конг)

2 nhận xét:

  1. Em rất đồng tình với quan điểm của tác giả: "trả lễ hội về cho nhân dân và tạo ra cơ chế tự quản tốt để những chủ thể lễ hội tự quản tài chính và cả xử lý các vấn đề nội bộ. Vấn đề của các cơ quan chính quyền quản lý là đảm bảo an ninh thật tốt để lễ hội diễn ra tốt đẹp….”

    Trả lờiXóa
  2. Lễ hội Nguyễn Trung Trực rất lớn nhưng tổ chức hết sức thành công. Hai phần Lễ và Hội rõ ràng . Toàn bộ ý tưởng, kết hoạch vận động, tuyên truyền, tổ chức thức hiện, kính phí, bảo vệ... thậm chí cả VSTP, giữ gìn môi trường giữa lòng thành phố ...tất cả đều do Nhân dân tự quản, chỉ cần Chính quyền ủng hộ chủ trương. Và chưa bao giờ có chuyện tiêu cực sảy ra ! Đây mới đúng là "Tinh thần Nhân dân" theo cách hiểu chữ " NHÂN DÂN" viết hoa ! Tại sao phía Bắc không tổ chức được các Lễ hội dân gian theo tinh thần như thế này ? Không khó trả lời !

    Trả lờiXóa